08:51 - 13/04/2017
U khổng lồ, một thất bại về dự phòng của ngành y tế
Có lẽ chưa thời nào các bệnh viện nước ta lại làm công tác truyền thông tích cực nhất như hiện nay.
Một trong những “chiến thuật” được áp dụng nhiều nhất là thông tin những ca mổ thành công, trong đó phổ biến là mổ cắt bỏ u khổng lồ. Nhưng nên vui hay buồn về những ca bệnh kiểu này?
Điều trị thành công
Đầu tháng 3/2017, bà Nguyễn Thị Hạnh, 46 tuổi, ngụ tại Quảng Ngãi, được bệnh viện đa khoa tỉnh này cắt bỏ một khối u sợi thần kinh nặng 10kg mang trên lưng suốt 20 năm trời. Theo bà kể, khối u xuất hiện từ năm ba tuổi, với thời gian nó lớn dần lên và đến năm 26 tuổi khối u nặng đến 10kg.
Người bình thường mang một trọng lượng như thế trên người đã thấy mệt, đằng này bà Hạnh phải mang nó suốt chừng ấy năm. Mệt nhọc và bất tiện, bà muốn đi bệnh viện nhờ bác sĩ cắt bỏ, nhưng gia cảnh nghèo không cho phép làm điều đó…
Cuối năm qua, các bác sĩ bệnh viện đa khoa Xuyên Á cắt bỏ một khối u tử cung cho một bệnh nhân nữ 53 tuổi có kích thước lên đến 35x35x40cm và nặng 12kg. Nhìn chung, những bệnh nhân mang các khối u khủng như thế đều hạn chế về điều kiện kinh tế, thiếu kiến thức phòng chống bệnh tật, hoặc sống ở vùng xa đi lại khó khăn nên không tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tốt. Khối u chỉ được biết đến sau hàng chục năm phát triển và gây biến chứng nặng, lúc đó bệnh nhân mới tìm đến cơ sở y tế thì chuyện hầu như quá muộn.
Bởi thế, nhìn theo góc cạnh nào đó việc cắt bỏ u khổng lồ quả là thành công về mặt y học; vì ca mổ kéo dài nhiều giờ, thầy thuốc đối mặt với rủi ro trong khi mổ và hồi sức cho bệnh nhân nhiều hơn ca mổ thường. Dưới góc độ truyền thông, ca mổ đáng là “thành công” vì nó thường là dạng “hiếm gặp trên thế giới” (quá lớn), “phức tạp” (u lớn gây chèn ép hoặc biến chứng), hoặc “phải cần đến sự trợ giúp của những phương tiện y khoa tiên tiến.”
Nhưng dự phòng thất bại
Tại một căn phòng của khoa phỏng – phẫu thuật tạo hình bệnh viện Chợ Rẫy TPHCM, những ngày này em Nguyễn Thị Trang, 21 tuổi, đến từ Hà Tĩnh, nằm co ro với dáng vẻ buồn bã. Không bị phỏng, nhưng Trang được xếp nằm ở khoa này vì em chờ bác sĩ can thiệp thẩm mỹ cho khối u làm biến dạng khuôn mặt mình suốt hàng chục năm trời.
Ông Nguyễn Văn Luận, cha bệnh nhân, cho biết khối u đã xuất hiện trên trán của Trang từ lúc mới sinh. Ông nói: “Tôi đã tám lần mang con ra Hà Nội và một lần vào một bệnh viện chuyên khoa hàm mặt lớn ở TPHCM để chữa, nhưng các cơ sở y tế nói bệnh này không chữa được hoặc họ chỉ chữa tạm rồi thời gian sau u cũng lớn lên”.
U ban đầu nhỏ, nhưng lớn dần cho đến khi chèn ép và làm biến dạng khuôn mặt Trang. Năm qua, tình cờ nghe giới thiệu bệnh viện đại học Y dược TPHCM có thể can thiệp được, gia đình đưa Trang vào và được chẩn đoán mắc bệnh dị dạng mạch máu. Sau hai lần can thiệp bít mạch máu vùng mặt, khối u xẹp được phần nào. TS.BS Trần Chí Cường, người can thiệp cho Trang, nói: “Đây là một trong những ca bệnh phức tạp nhất vì dị dạng mạch máu mà tôi gặp. Do để quá lâu nên bệnh diễn tiến nặng và cần phải điều trị lâu dài”.
Nhưng không chỉ BS Cường nhận xét như thế, khi tiếp nhận Nguyễn Thị Trang từ bệnh viện đại học Y dược TP.HCM chuyển tiếp sang điều trị, bác sĩ Ngô Đức Hiệp, trưởng khoa Phỏng và phẫu thuật tạo hình bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM, cũng thốt lên: “U phát triển lớn và phức tạp quá, nếu đến sớm hơn thì mọi chuyện dễ dàng”.
Theo các chuyên gia, hành trình điều trị cho Trang còn rất dài và phức tạp vì dị dạng mạch máu không chỉ gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ, làm hư mắt phải em, mà còn ảnh hưởng đến các mạch máu trong não, dẫn đến nguy cơ tàn tật và thậm chí tử vong. Nhưng không chỉ có thế, kéo theo đó là vô số tốn kém cho một gia đình nông dân mà thu nhập quanh năm chỉ dựa vào làm ruộng và nuôi bò.
Hy vọng rồi đây với sự tận tâm và nỗ lực hết mình của các bác sĩ, bệnh tình và khuôn mặt của Trang sẽ được can thiệp đến mức tốt nhất và đó xem như là một thành công của y học Việt Nam. Nhưng phải chi Trang được các cơ sở y tế nhận diện được bệnh và chuyển gửi sớm hơn, thì thiệt hại cho em chắc chắn không nặng nề như hiện nay.
Một hệ thống y tế được xem là tốt khi có khả năng liên kết với nhau, chuyển gửi bệnh nhân nhanh chóng và chính xác đến cơ sở y tế có khả năng điều trị được, thay vì để họ bơ vơ tự thân tìm nơi chữa trị. Vì thế, cắt bỏ những khối u khủng có thể là thành công về điều trị, nhưng về mặt dự phòng có lẽ là thất bại, bởi ngành y tế không thể tầm soát và phát hiện chúng ngay từ nhỏ, khi đó việc điều trị hết sức đơn giản và chi phí bệnh nhân bỏ ra cũng rất ít.
Không thể trách người dân chủ quan hay thiếu kiến thức chăm sóc sức khoẻ, vì những kiến thức này phần lớn họ có được từ công tác truyền thông và giáo dục sức khoẻ của ngành y tế. Cũng không thể trách bệnh nhân không tích cực chữa bệnh, vì phần lớn trường hợp u khổng lồ đều có hoàn cảnh khó khăn.
Ngành y tế mạnh về điều trị nhưng yếu về dự phòng và huy động nguồn lực hỗ trợ cho bệnh nhân chỉ có thể là một ngành y tế yếu, bởi phòng bệnh quan trọng hơn trị bệnh.
Dương Cầm
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này