23:20 - 18/10/2018
Tại sao các startup y tế tiếp tục thất bại?
Phương pháp “đi nhanh và phá vỡ mọi thứ” phát huy tác dụng trong lĩnh vực công nghệ nhưng không phù hợp khi áp dụng trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Thay vào đó, các startups y tế kỹ thuật số cân nhắc bắt đầu sản phẩm sáng tạo của mình theo nhu cầu của người dùng.
Cách đây một thập kỷ xuất hiện làn sóng các startups hứa hẹn sẽ biến đổi sức khỏe của con người bằng cách cho phép họ theo dõi dữ liệu về việc ăn uống, ngủ, tập thể dục và các thói quen khác. Nổi bật trong số đó là Zeo, gọi vốn hơn 30 triệu đôla Mỹ (USD) từ các nhà đầu tư để phát triển một băng đô (vòng đeo trên trán) để theo dõi giấc ngủ của người dùng và một ứng dụng kèm theo được kỳ vọng trở thành bạn đồng hành, tư vấn để người dùng có giấc ngủ tốt hơn. Sau cùng, Zeo lặng lẽ rời khỏi thị trường vài năm sau đó mặc cho thời gian đầu họ thu hút được sự chú ý của giới truyền thông và từng xuất hiện trên các tạp chí chuyên ngành nổi tiếng như Wired hay Popular Science.
Zeo chỉ là một trong nhiều startups y tế kỹ thuật số (digital health startup) đầy hứa hẹn nhưng rồi không thể tạo ra những tác động lâu dài trong cuộc sống. Tin vui là dòng tiền tiếp tục đổ vào lĩnh vực này với khoảng gần 12 tỷ USD đầu tư trong năm 2017. Tuy vậy, hiện có ít công ty tạo được sự đột phá đem đến những chuyển đổi sâu sắc trong chăm sóc sức khỏe. Tại sao như thế?
Nhiều startups y tế kỹ thuật số không thành công vì chọn cách tiếp cận không phù hợp ngay từ đầu. Họ mang chiến lược trong lĩnh vực công nghệ đem vào y tế, một ngành hoàn toàn khác với những bộ quy tắc riêng. Mô típ chung trong lĩnh vực công nghệ là các startups sẽ phát triển sản phẩm với những tính năng cơ bản nhất có thể sử dụng. Kế đó, đẩy ra thị trường, lấy ý kiến phản hồi và hoàn thiện sản phẩm. Phương pháp này thường được gọi là khởi nghiệp tinh gọn. Tuy nhiên chiến lược này là không phù hợp với chăm sóc sức khỏe, một ngành công nghiệp phức tạp hơn rất nhiều.
Các sản phẩm y tế kỹ thuật số không chỉ cần hấp dẫn với người tiêu dùng mà còn thuyết phục các bên liên quan như bác sĩ, bệnh nhân, nhà quản lý và các nhà bảo hiểm. Tất cả các tác nhân này đều có ý kiến về việc liệu công nghệ mới có được chấp nhận hay không. Các sản phẩm, đặc biệt là những thiết bị y tế, có thể phải mất nhiều năm trải qua những kiểm nghiệm lâm sàn phức tạp trước khi chúng tiếp cận thị trường và không phải lúc nào cũng dễ dàng được thông qua lần nữa khi lặp lại các thử nghiệm.
Trong môi trường này, cách tiếp cận “đi nhanh và phá vỡ mọi thứ” có thể trở thành “đi nhanh và mọi thứ phá sản”. Ví dụ, nhiều nhà sáng lập tập trung xây dựng và tiếp thị sản phẩm cho người tiêu dùng đầu cuối. Nhưng khi thực tế sản phẩm ra thị trường, chính các bác sĩ và những công ty bảo hiểm mới thực sự là những người gác cổng và là khách hàng mà các startups nên bán sản phẩm. Trong trường hợp này, các startups mắc lỗi cơ bản trong định vị khách hàng mục tiêu. Đây là lý do tại sao 61% các công ty khởi nghiệp y tế kỹ thuật số bắt đầu với mô hình B2C (Business to customer), sau đó chuyển qua mô hình B2B (business to business) và bán sản phẩm cho các công ty bảo hiểm, doanh nghiệp, bệnh viện hoặc các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác thay vì hướng trực tiếp đến người dùng đầu cuối.
Một cách tiếp cận tốt hơn cho các startup trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đó là hãy đi từ chính nhu cầu thị trường, hiểu sâu sắc về nhu cầu đó và xây dựng giải pháp giải quyết thay vì tự nghĩ ra một công nghệ (ví như màn hình theo dõi giấc ngủ) và cố thuyết phục khách hàng sử dụng.
Sau khi xác định những nhu cầu chưa được đáp ứng, các nhà đổi mới sáng tạo phải đi sâu để hiểu rõ vấn đề, giải pháp hiện có, kỳ vọng và quan điểm của tất cả các bên liên quan. Quá trình này thường gắn kết với nghiên cứu về tài liệu y học; phỏng vấn bác sĩ, bệnh nhân và các bên liên quan khác; đồng thời bao gồm cả việc quan sát trực tiếp từng cá nhân người dùng để xem sản phẩm được tạo ra đáp ứng như thế nào.
Thông qua quá trình này, các nhà đổi mới sáng tạo phát triển bộ tiêu chí cần thiết, tức là một danh sách các yêu cầu thiết yếu mà một giải pháp phải cung cấp được để đáp ứng các nhu cầu của các bên liên quan và cải thiện tiêu chuẩn chăm sóc hiện tại. Những yếu tố này có thể bao gồm độ chính xác, chi phí, tính dễ sử dụng, tích hợp với các quy trình làm việc hiện có … Thay vì đổ xô ra mắt sản phẩm và sau đó xem người dùng phản ứng như thế nào, nhà sáng tạo bắt đầu với một cách tiếp cận cởi mở và sử dụng bộ tiêu chí cần thiết để làm la bàn hướng dẫn phát triển cẩn thận giải pháp thích hợp, tăng tỷ lệ chấp nhận thành công.
Việc xây dựng bộ chỉ cần thiết và sự hiểu biết sâu sắc về các bên liên quan tốn thời gian nhiều. Và đó là lý do không ít startups bỏ qua bước này. Rob Coppedge, một nhà đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khởi nghiệp y tế chia sẻ rằng các startups y tế đã đốt một lượng tiền đáng kể nhưng không xây dựng được doanh nghiệp bền vững. Lý do thường là vì người sáng lập thiếu chuyên môn, công việc chăm sóc sức khỏe chưa được đánh giá cao, [và] hiểu lầm trải nghiệm đầy đủ của người tiêu dùng.
Arlen Myers, chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Bác sĩ cho rằng các startups y tế kỹ thuật số thất bại vì họ “không để tâm trí đến người dùng đầu cuối sớm và thường xuyên. . . không thỏa mãn nhu cầu của nhiều bên liên quan. . . tạo ra những sản phẩm can thiệp vào quy trình làm việc của bác sĩ thay vì làm cho việc này trở nên dễ dàng hơn. . . [hoặc] cung cấp những sản phẩm không được thử nghiệm lâm sàng.”
Không phải tất cả các startups y tế đều thất bại. Trong số đó vẫn có doanh nghiệp biểu hiện tích cực, ví như startup iRhythm Technologies với sản phẩm Zio Patch – một miếng dán có màn hình để theo dõi nhịp tim. Tương tự như Zeo (được đề cập ở trên), Zio Patch sử dụng cảm biến để thu thập dữ liệu về nhịp tim nhằm xác định xem người dùng có bị rối loạn nhịp tim hay không và mức độ như thế nào.
Người sáng lập iRhythm là Uday N. Kumar, một người có chuyên môn về tim mạch từng theo học tại đại học California, San Franscisco, vốn nổi tiếng là trường hàng đầu thế giới trong lĩnh vực y học. Uday N. Kumar quan sát giải pháp hiện tại để đo rối loạn nhịp tìm là màn hình Holter. Đây là một thiết ghi nhận dữ liệu di động có nhiều dây và điện cực gắn liền với da. Nó cồng kềnh, không thể sử dụng khi tập thể dục hoặc lúc tắm rửa; hoạt động trong 24 – 48 giờ, có khả năng mất dữ liệu khi các lần nhịp tim bị loạn xảy ra gián đoạn, không liên tục.
Những yếu tố trên khiến việc chẩn đoán tình trạng sức khỏe bệnh nhân khó chính xác, hoặc phải tốn nhiều lần khám mới đủ cơ sở đưa ra chẩn đoán chính xác; dẫn đến tăng chi phí khám bệnh. Những nhược điểm này là cơ sở để iRhythm nghiên cứu, đưa ra giải pháp cải thiện với một thiết bị có các tiêu chí cần thiết như: chi phí thấp, chính xác, dễ sử dụng và có thể giám sát, hoạt động trong một khoảng thời gian dài.
Dựa trên những tiêu chí cần thiết này, iRhythm phát triển Zio Patch: một miếng dán nhỏ trên cơ thể người, linh hoạt, chống nước, ghi lại nhịp tim liên tục trong tối đa hai tuần. Giải pháp này không đắt đỏ và đơn giản đến mức có thể được cung cấp cho bệnh nhân ở mọi lứa tuổi và hiểu biết chuyên môn, phù hợp với các chuyên gia tim mạch, phòng cấp cứu hoặc tại văn phòng của bác sĩ chăm sóc chính cho bệnh nhân. Trong giai đoạn đầu phát triển, nhóm iRhythm đã chọn không tích hợp một số tính năng công nghệ cao phức tạp, như truyền dữ liệu không dây để tránh làm cho sản phẩm trở nên quá đắt đối với đa số khách hàng.
Nhóm nghiên cứu cũng nhận ra rằng nếu Zio Patch chỉ mới đáp ứng yếu tố dễ sử dụng cho bệnh nhân thì như vậy là chưa đủ. Zio Patch cũng phải tạo ra thông tin cho các bác sĩ dễ dàng đọc và diễn dịch; đồng thời cải thiện các kết quả thử nghiệm lâm sàn, một yếu tố quan trọng đối với các công ty bảo hiểm y tế. Bằng cách tiến hành 18 nghiên cứu lâm sàng trên Zio Patch và xuất bản kết quả nghiên cứu trong các tạp chí uy tín như Journal of American Medical Association, iRhythm có thể chứng minh những giá trị cải thiện mà Zio Patch đem đến so với những phương pháp hiện có trên thị trường trước đó.
Tính đến năm 2017, iRhythm đã huy động được hơn 230 triệu đôla từ các nhà đầu tư, bao gồm 110 triệu đô la trước khi chào bán lần đầu vào tháng 10 năm 2016. Vào năm 2018, công ty dự kiến doanh thu khoảng 140 triệu đô la.
Câu chuyện của iRhythm cho thấy, việc bắt đầu với sự hiểu biết sâu sắc về các nhu cầu của các bên liên quan có thể giúp các startups tạo ra những giải pháp giúp cải thiện các quy trình chẩn đoán, điều trị và giám sát hiện có bằng cách làm cho chúng nhanh hơn, dễ tiếp cận hơn, chính xác hơn và rẻ hơn.
Đức Tâm (theo MTG/FC)
Có thể bạn quan tâm
‘Trái tim thu nhỏ’ – cơ hội sống cho hàng triệu người
Bộ Y tế sẽ điều chỉnh 88 mức giá dịch vụ y tế từ ngày 15/7
Ăn chay đờ-mi
Du lịch tế bào gốc thành ‘du lịch rước hoạ’
Soda không đường khiến phụ nữ mãn kinh dễ đột quỵ
Tags:startup y tế
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này