12:37 - 04/08/2018
6 cột mốc của kỷ nguyên ‘thụ tinh trong ống nghiệm’ – IVF
Tuần qua, thế giới kỷ niệm 40 năm ngày ra đời phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Từ chỗ bị nghi ngờ và định kiến, IVF giờ đây đã trở thành một thành tựu y học tuyệt vời.
Vĩ đại hơn cả lên mặt trăng
Khi Jean Marian Purdy nhìn phôi thai đơn độc một tế bào trong chiếc đĩa petri thí nghiệm phân thành tám tế bào, có lẽ bà không tưởng tượng được rằng khoảnh khắc đó đáng nhớ đến chừng nào.
Thật vậy, đó là khởi đầu cho sự ra đời của Louise Brown chín tháng sau, cô bé IVF đầu tiên trên thế giới, và nó cũng đánh dấu sự ra đời của hơn 6 triệu con người sau này mà nếu không có IVF có lẽ họ không có mặt trên trần gian. Purdy cùng với hai nhà nghiên cứu người Anh, khoa học gia Robert Edwards và chuyên gia sản khoa Patrick Steptoe, là bộ ba khai sinh ra kỷ nguyên IVF.
IVF tạo ra phôi thai trong phòng thí nghiệm bằng cách dùng nội tiết tố làm tăng số lượng trứng, cho trứng gặp gỡ tinh trùng, rồi để phôi thai tăng trưởng vài ngày trong phòng lab trước khi chuyển vào tử cung phụ nữ.
Purdy, Edwards và Steptoe mất mười năm trời nghiên cứu. Họ lấy ra 457 tế bào trứng, thụ thai thử 331 lần và mất khoảng 221 phôi thai để chứng minh IVF là khả thi. Và họ cũng đối mặt với biết bao kỳ thị, lên án của người đời cho rằng họ đang tạo ra những “đứa bé quái vật” (“Frankenbaby”).
Sau 40 năm, IVF đã thay đổi đáng kể. GS Simon Fishel, chuyên gia vô sinh hàng đầu người Anh, nói: “Ban đầu, để lấy trứng, bệnh nhân phải nằm viện mười ngày, vì người ta cần đo chu kỳ rụng trứng của phụ nữ bằng cách thử nước tiểu tám lần/ngày. Giờ đây chỉ việc dùng thuốc kiểm soát chu kỳ”.
Điều kiện làm việc cũng thay đổi. Louise được thụ tinh trong một chiếc ống thí nghiệm đặt trong chiếc hộp ủ ấm, giờ đây người ta dùng đĩa petri đặt trong máy ủ được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí bạn có thể nhìn thấy phôi thai tăng trưởng thực tế trên điện thoại thông minh của mình.
Chỉ định trị liệu IVF ngày nay cũng mở rộng nhiều. Trong khi 88% phụ nữ dùng trứng của mình để phối hợp với tinh trùng người bạn đời, thì IVF còn cho phép những cặp cùng giới tính, thậm chí chỉ một phụ nữ cũng có thể… có con. IVF còn cho phép phụ nữ bảo tồn khả năng sinh sản trước khi điều trị một số bệnh (như ung thư) và giúp phòng ngừa những bệnh di truyền.
Kỷ niệm 40 năm IVF ra đời, bác sĩ sản phụ khoa John Webster, 82 tuổi, người duy nhất đỡ đẻ cho mẹ Louise còn sống, nói: “Trước khi Louise chào đời, Patrick Steptoe nói với tôi, ‘Rồi ông sẽ thấy câu chuyện này vĩ đại hơn cả việc con người đặt chân lên mặt trăng’. Ông ấy đã nói đúng”.
Sáu cột mốc đáng nhớ
Louise Brown hiện sống ở TP Bristol (Anh quốc), làm việc cho một công ty vận tải và có hai con trai. Sự ra đời của chị là cột mốc đầu tiên của kỷ nguyên IVF. Trao đổi với báo chí Anh mới đây, chị nói: “Nhiều người không biết tôi và tôi hạnh phúc với điều đó. Nhưng cách đây không lâu, khi tôi đi mua sắm, một phụ nữ chạy theo và hỏi liệu tôi có phải là Louise không. Tôi trả lời phải, thế là cô ấy ôm tôi và nói: ‘Cám ơn chị. Không có chị có lẽ tôi không có được hai đứa con ra đời bằng IVF’. Một kỷ niệm đáng nhớ”. Ban đầu IVF chỉ giúp đỡ những phụ nữ còn trứng, do đó những người không còn buồng trứng (bẩm sinh hay bệnh tật), hay người mãn kinh sớm, phụ nữ lớn tuổi, không thể có được niềm vui làm mẹ.
Năm năm sau khi Louise Brown ra đời, năm 1983, tại Úc một phụ nữ không còn buồng trứng đã thực hiện IVF bằng trứng hiến tặng của người khác. Sử dụng trứng hiến tặng chỉ chiếm khoảng 4% chu kỳ IVF, và người cho trứng phải từ chối quyền làm mẹ đứa bé sau khi nó ra đời. Giờ đây kỹ thuật này còn áp dụng cho những cặp cùng giới tính nữ. Một người cho trứng, còn người kia mang thai em bé để cùng trải nghiệm sinh nở.
Nói đến IVF nhiều người nghĩ ngay đến vô sinh nữ, dù một nửa vấn đề vô sinh có thể liên quan đến tinh trùng như tinh trùng ít, tinh trùng hình dángbất thường hay chuyển động không bình thường.
Năm 1992, một kỹ thuật mới ra đời tại Bỉ có tên là “tiêm tinh trùng vào bào tương trứng” (ICSI) – tiêm trực tiếp một tinh trùng vào trứng để thụ tinh – đã giúp nhiều nam giới có được hạnh phúc làm cha. Bệnh nhân làm ICSI vẫn thực hiện tiến trình IVF như bình thường, nhưng thay vì trộn chung trứng và tinh trùng vào đĩa petri, tinh trùng được tiêm vào trứng. Trong vài trường hợp, tinh trùng được lấy qua mổ xẻ, thí dụ người nam có tinh trùng quá ít.
Một vấn đề nảy sinh: người có người thân mắc bệnh di truyền hoàn toàn có thể sinh ra em bé mắc bệnh. Để xác định, người ta xét nghiệm nước ối vào tuần 15 – 20 thai kỳ, nếu kết quả dương tính, thai sẽ bị huỷ. Nhưng phương pháp di truyền tiền làm tổ (PGD) đã thay đổi điều này. Phôi thai tạo ra bằng IVF, sau đó chúng được tầm soát bệnh di truyền và chỉ những phôi khoẻ mạnh mới được chuyển vào tử cung cho phát triển.
IVF không chỉ là tiến bộ y học, mà còn thể hiện xu hướng của việc làm cha mẹ thời hiện đại. Tháng 4/2014, Anh điều chỉnh luật để một phụ nữ có thể trở thành người mang thai hộ người khác. Lúc này, phôi thai được tạo ra trong phòng thí nghiệm rồi chuyển cho một phụ nữ mang thai hộ. Một cặp nam giới có thể chọn cách này để có con.
Cột mốc sau cùng của IVF là “thuỷ tinh hoá” trứng, hay làm lạnh trứng cực nhanh, giúp dự trữ trứng cho những phụ nữ có vấn đề không thể dùng trứng tức thời, như điều trị ung thư, sợ suy giảm chức năng sinh sản, chưa tìm được người bạn đời… Tại Anh, em bé đầu tiên ra đời bằng trứng “thuỷ tinh hoá” vào năm 2010.
An Lành (theo TGTT)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này