10:06 - 10/10/2017
Phân tích: những điểm yếu cố hữu trong việc tiếp cận tín dụng của DNNVV
Ông Nguyễn Tú Anh – phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN trong bài viết cho Hội thảo “Giải pháp tín dụng cho DNNVV” đã đưa ra phân tích về những điểm yếu cố hữu trong việc tiếp cận tín dụng của các DNNVV.
Theo đó, vấn đề lớn nhất đối với các doanh nghiệp SMEs khi tiếp cận tín dụng với hệ thống ngân hàng đó là phần lớn các doanh nghiệp SMEs là các doanh nghiệp trẻ, họ chưa đủ thời gian để xây dựng lòng tin với ngân hàng.
Do đó các ngân hàng thường chưa có đủ các kinh nghiệm và thông tin cần thiết để giao dịch thành công với các loại doanh nghiệp này. Tỷ lệ sống sót của các doanh nghiệp trẻ thường rất thấp tạo ra rủi ro quá lớn cho các ngân hàng.
Thêm vào đó, các SMEs do đang quá trình hoàn thiện nên thường yếu kém trong tổ chức hoạt động kinh doanh, trong quản lý và trong khả năng marketing; họ thường không có đủ các nhân viên kế toán đủ trình độ và không áp dụng đúng và đầy đủ các chuẩn mực kế toán, làm cho các hồ sơ của họ thiếu minh bạch (Ayadi và Gadi 2013), do đó rất khó để ngân hàng có thể lấy thông tin chính xác từ các bản tổng kết kế toán của SEMs.
Các SMEs thường không đủ khả năng để lập các dự án chi tiết đủ để thuyết phục các ngân hàng điều này đôi khi được các doanh nghiệp cho rằng các thủ tục của ngân hàng phức tạp. Các khoản vay này thường nhỏ nên chí phí quản lý trên một đồng vốn cho vay là cao. Tại các nước đang phát triển thì các SMEs thường được hình thành và phát triển trong các khu vực phi chính thức, trong đó có rất nhiều giao dịch không được ghi chép lại đúng chuẩn mực, nhiều khoản thu chi không chứng minh được nguồn gốc do đó khi tiếp cận các nguồn tài chính chính thức họ thường khó chứng minh và thuyết phục người cho vay về khả năng sinh lời của họ.
Bên cạnh đó, rủi ro của các doanh nghiệp SMEs thường là cao hơn các doanh nghiệp lớn, đồng thời do thời gian tồn tại còn ngắn nên tín nhiệm của các doanh nghiệp SMEs thường thấp, do đó hầu hết các doanh nghiệp SMEs khi tiếp cận tín dụng đều phải có thế chấp hoặc bảo lãnh. Các SMEs thường là bé và hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực sở hữu nhiều lao động lại thường không có đủ tài sản thế chấp. Điều này cũng là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp SMEs trong việc tiếp cận vốn.
Cũng vì các lý do này mà chi phí cho việc quản lý các khoản vay cho SMEs thường là cao nên lãi suất cho các khoản vay này phải cao hơn. Vì lãi suất cao hơn đã gây sức ép các SMEs phải đầu tư vào những dự án nhiều rủi ro hơn, điều này lại làm cho các khoản vay của SMEs thêm rủi ro. Nguy cơ rủi ro lựa chọn ngược tăng lên với các doanh nghiệp SMEs (Hình 3).
Thêm vào đó, hệ thống thông tin của các doanh nghiệp SMEs thường không đủ, và họ có rủi ro đạo đức lớn hơn các doanh nghiệp lớn. Tức là các khoản vay của các doanh nghiệp SMEs có xác suất sai với mục đích cam kết cao hơn các doanh nghiệp lớn. Điều này cũng làm các ngân hàng e ngại trong việc cho các doanh nghiệp SMEs vay tiền.
Rủi ro cao nhưng khi các doanh nghiệp SMEs rơi vào tính trạng mất thanh khoản thì ngân hàng cũng gặp rất nhiều rào cản để có thể thu hồi các khoản nợ.
Đối với các nước đang chuyển đổi thì sự phá sản của các doanh nghiệp lớn sẽ gây ra các tác động bất lợi về chính trị và xã hội lớn hơn rất nhiều so với các sự phá sản của một doanh nghiệp nhỏ. Do đó các ngân hàng thường kỳ vọng nhà nước sẽ giải cứu các doanh nghiệp lớn hơn là các doanh nghiệp nhỏ. Điều này cũng gây bất lợi cho các SME.
Trên thực tế, tỷ lệ doanh nghiệp không tiếp cận được tín dụng tại các nước Đông Á và Trung Á và Cáp-Ca là xấp xỉ 70% và tại Đông Nam Á là khoảng 75%. Các nhóm nước đang phát triển khác thì tỷ lệ này nằm khoảng từ 42% – 57%.
Khó tiếp cận tín dụng không phải là rào cản chính
Mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp không tiếp cận được tín dụng ở các nước châu Á là rất cao, nhưng tỷ lệ doanh nghiệp tại các nước này cho rằng khó tiếp cận tín dụng là rào cản chính lại rất thấp. Khoảng 17% doanh nghiệp SMEs tại các nước Đông Á cho rằng tiếp cận tín dụng là trở ngại chính. Tỷ lệ này tại các nước Trung Á và vùng Cáp-ca là khoảng 20% và Đông Nam Á là khoảng 33%.
Như vậy thực tế cho thấy SMEs cũng không có nhu cầu tiếp cận tín dụng. Điều này phù hợp với nghiên cứu của CIEM, ILSSA, ĐH Copenhagen và Trường Đại học UNU-WIDER năm 2016 về môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Mặc dù mẫu nghiên cứu này chỉ hơn 2500 SMEs, nhưng có tới 54% doanh nghiệp cho rằng họ không có nhu cầu vay vốn. Trong khoảng 75% doanh nghiệp không vay vốn tín dụng thì chỉ khoảng 7% cho rằng vì thủ tục vay nợ khó khăn còn lại chủ yếu là không có nhu cầu và không muốn phát sinh nợ nần….
Bài học từ một số nước
Các nước đang phát triển chủ yếu chú trọng vào việc cải thiện môi trường pháp lý và hệ thống thông tin để giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng trong việc cho các doanh nghiệp SMEs vay.
Các nước Trung Đông và Bắc Phi tập trung chủ yếu vào nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng của các doanh SMEs, hỗ trợ các doanh nghiệp SMEs xây dựng hệ thống kế toán, báo cáo chuẩn mực. Qua đó nâng tính minh bạch và độ tin cậy của các doanh nghiệp này khi tiếp cận ngân hàng.
Giải pháp thứ hai được hầu hết các nước đều áp dụng đó là thực hiện các chương trình hỗ trợ tài chính thông qua các chương trình hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng. Tuy nhiên theo đánh giá của IMF thì các biện pháp hỗ trợ tài chính này thành công rất hạn chế ở các nước Trung Đông, Bắc Phi và Trung Á do nó không cải thiện được năng lực quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp SMEs. Thực tế cho thấy nếu hệ thống pháp luật không được cải thiện để hỗ trợ bảo vệ quyền tài sản, bảo vệ quyền xử lý tài sản thế chấp của chủ nợ, minh bạch hoá hoạt động của các doanh SMEs thì các biện pháp hỗ trợ tài chính chưa thể phát huy hiệu quả ở các nước đang phát triển.
Nhiều nước tập trung nâng cao năng lực trong việc đăng ký tài sản và làm rõ quyền sở hữu tài sản để qua đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp SMEs có thể sử dụng các tài sản làm thế chấp các khoản vay. Giải pháp này được các nước Trung Á và Cáp-ca thực hiện khá mạnh mẽ.
Các giải pháp như nâng cao hiệu quả thực thi hợp đồng, cải thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ nhà đầu tư, người cho vay, minh bạch hoá và cụ thể hoá các giải thủ tục pháp lý phá sản và thu hồi nợ mất khả năng thanh toán, đều được Ngân hàng thế giới khuyến nghị và các nước đang phát triển thực hiện.
Các tổ chức tín dụng cũng cần phát triển các sản phẩm riêng cho các doanh nghiệp SMEs với các mô hình quản trị rủi ro riêng biệt phù hợp với các doanh nghiệp SMEs. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp SMEs đã tồn tại được trên 3 năm.
Cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp SMEs cần có sự chia sẻ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, đặc biệt là các công ty tài chính và cho thuê tài chính. Khuyến khích các doanh nghiệp SMEs niêm yết trên thị trường để có thể huy động được vốn dài hạn cho các hoạt động của mình…
Theo DĐDN
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này