15:13 - 22/03/2017
Gian nan đường lên đỉnh 10 tỉ đô
Sau khi tôm đạt 3,13 tỉ USD trong năm 2016, con đường dẫn đến 10 tỉ USD xuất khẩu tôm còn xa vời vợi khi ngay năm 2017 này chưa có dấu hiệu tăng cao; trong khi các thị trường từ Mỹ đến châu Âu đến Úc… đều siết lại tiêu chuẩn, thậm chí cấm nhập.
Tự giải bài toán “vi mô”
Hiện nay, tôm Việt Nam xuất sang châu Âu gặp khó về chứng nhận xuất xứ hàng hoá (CO) do có tình trạng làm giả CO quá nhiều. Bảy nhà máy trong nước đang bị kiểm tra và nếu phát hiện làm giả CO thì sẽ bị phạt rất nặng.
Úc có lệnh cấm nhập tôm tươi Việt Nam trong vòng sáu tháng để kiểm tra sau khi phát hiện ở vùng phía đông bang Queensland dịch bệnh đốm trắng, chỉ có tôm luộc vẫn bán bình thường. Ông Hồ Quốc Lực, tổng giám đốc công ty CP thực phẩm Sao Ta (Sóc Trăng), nhận xét: trong năm qua thực tế mức cung không đủ cầu. Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm hơn 70% sản lượng tôm của cả nước, nhưng thường thiếu hụt tôm nguyên liệu vào những tháng đầu năm và hai tháng cuối năm. Tới tháng 3 bắt đầu có tôm trở lại. Trong những tháng thiếu tôm nguyên liệu, nguồn cung tại ĐBSCL chỉ đáp ứng khoảng 30% so công suất chế biến các nhà máy. Thiếu hụt nguyên liệu thì nhà máy không có cách nào khác là giảm nhịp độ chế biến.
Đã có sự dịch chuyển những đơn hàng gia công chế biến từ nước khác vào Việt Nam, nhưng âm thầm, không rầm rộ. Các nhà máy chế biến khá nhàn tản nên khách hàng dễ thương thảo, phí gia công thấp nên không có lãi nhiều; nhưng cái lợi là nhà máy duy trì sản xuất, tạo được việc làm cho công nhân thường xuyên.
Ông Lực là người giỏi gợi ý để đối tác chấp nhận một sản phẩm kết hợp từ thuỷ sản và rau quả do nhà máy An San thực hiện để xuất qua Nhật. “An San phải mất bảy năm cầm cự, từng bước tiếp cận khách hàng mới có được thị trường mới. Điều đó nói lên rằng muốn đặt kế hoạch tăng trưởng là cả lộ trình, không đơn giản chút nào”.
Nhiều năm trước khách hàng Nhật Bản yêu cầu những sản phẩm sản xuất theo quy trình của họ và An San đã chọn trang trại để đặt hàng, cam kết làm đúng theo hợp đồng, đảm bảo nông sản sạch khi đưa đến nhà máy chế biến. Hiện nay, sản phẩm phối chế của An San (hải sản, khoai, cà tím, ớt chuông…) xuất sang Nhật đang tăng lên, không chỉ bán tại Nhật mà bắt đầu tiếp cận một số thị trường mới như Singapore, xuất sang châu Âu và chào hàng bán qua Mỹ.
Đối với thị trường Mỹ, chiến lược bảo hộ hàng trong nước của Chính phủ mới có thể dẫn tới vụ kiện về tôm Việt Nam, rất phức tạp và không mấy thuận lợi, theo ông Lực thì phải “sau tháng 5 mới biết kết quả”. Nếu vụ kiện sẽ kéo dài, hàng năm doanh nghiệp phải làm thủ tục hành chính và phía Mỹ sẽ xem xét, tính thuế cứ năm năm làm lại một lần.
Có quá nhiều việc để làm
PGS.TS Trương Quốc Phú, trưởng khoa thuỷ sản, trường ĐH Cần Thơ, cho rằng nghề nuôi tôm ở Việt Nam đang ở giai đoạn tăng tốc. Những thành công chủ yếu là do thời tiết thuận lợi, những công nghệ nuôi bền vững được áp dụng (nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm hữu cơ, nuôi tôm công nghệ cao…). Ngược lại, những người thất bại là do sự phát triển của nghề nuôi theo hướng tự phát, nhỏ lẻ, công nghệ nuôi gây ô nhiễm môi trường.
Về tiềm năng, ông Phú cho biết Việt Nam “hoàn toàn có thể phát triển 1 triệu ha nuôi tôm”. Để đạt được chỉ tiêu của chính phủ đề ra đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về kỹ thuật, chính sách, dịch vụ hỗ trợ… Thuận lợi lớn nhất đó là những thành tựu nghiên cứu của thế giới (công nghệ nuôi bền vững) hoàn toàn có áp dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất tôm. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất vẫn là làm thế nào để áp dụng một cách đầy đủ vào điều kiện ở Việt Nam, khi nghề nuôi tôm ở nước ta còn nhỏ lẻ, tự phát.
Rủi ro lớn nhất là quy trình nuôi đang được áp dụng phổ biến hiện nay không bảo vệ được môi trường. Chất thải từ ao nuôi tôm thải trực tiếp ra môi trường từ đó làm cho vùng nuôi bị suy thoái, mầm bệnh tích tụ trong nguồn nước dẫn vào ao nuôi.
Theo TS Phú, có hai cách: 1/ Phát triển theo chiều rộng, mở rộng diện tích nuôi với các mô hình nuôi thân thiện với môi trường như nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm hữu cơ… như mô hình tôm – lúa, tôm rừng. Trong các mô hình này nên duy trì mật độ nuôi thấp, không sử dụng thức ăn, hoá chất công nghiệp; 2/ Phát triển theo chiều sâu, nâng cao mức độ thâm canh hoá bằng cách áp dụng các mô hình nuôi thâm canh, siêu thâm công nghệ cao như: công nghệ tuần hoàn, công nghệ nuôi nhà màng…
Điểm mấu chốt của các công nghệ nuôi mới này là có hệ thống xử lý và tái sử dụng chất thải, hoàn toàn không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Nếu phát triển nghề nuôi tôm theo hai hướng đã nêu; đồng thời phát triển các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ hỗ trợ, vốn… để chuyển đổi từ mô hình nuôi hiện nay sang mô hình nuôi công nghệ cao, công nghệ bền vững, thì chúng ta hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu như Chính phủ đã đề ra.
Nguồn nước, quy trình nuôi và cách phòng chống hai bệnh phổ biến (đốm trắng và hoại tử gan tuỵ cấp tính) luôn là những thách thức bài toán vĩ mô.
Ngay khi thị trường cần tôm nhưng không phải muốn tăng sản lượng là được. Tâm lý người nuôi sợ dịch bệnh, rủi ro cao, lỗ lã… khiến nhiều người nuôi tôm không dám mở rộng diện tích. “Khi hướng theo tiêu chuẩn hoá thì các khó khăn, thách thức cũng đi kèm, trong đó cần phải đảm bảo hạ tầng (thuỷ lợi, điện, đường…) cho tốt, vốn và kỹ thuật cũng cần cao hơn, nguy cơ xảy ra dịch bệnh cao hơn…”, theo TS Nguyễn Văn Sáng, viện trưởng viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 2.
Theo ông Sáng, diện tích nuôi tôm nước lợ các tỉnh ĐBSCL có thể mở rộng thêm, nhưng đầu tư về hạ tầng (thuỷ lợi, giao thông, điện) cần tăng cường hoàn thiện và nhân rộng mô hình nuôi hiệu quả theo từng vùng sinh thái gắn với đầu tư từ nông hộ, các trang trại. Thực tế cũng cho thấy, người có đất đai rộng nhưng nuôi không được nhiều do chưa có nhiều kinh nghiệm, ngược lại người có hiểu biết và kinh nghiệm nuôi tôm lại không có vốn để đầu tư.
Đức Toàn
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này