08:32 - 07/04/2016
Xuất khẩu nông sản: Thiếu hàng là… dở rồi
Câu chuyện không đủ nông thuỷ sản để xuất khẩu cho thấy ngành nông nghiệp đang có lỗ hổng rất lớn về quy hoạch, về định hướng sản xuất, định hướng thị trường.
Kể từ tháng 3/2016, ông Trần Quang Trung, chủ trại heo ở huyện Thống Nhất, Đồng Nai nâng số lượng heo xuất chuồng từ 200 con lên thành 300 con mỗi tháng.
Ông Trung nói đây là thành quả mở rộng đầu tư trong năm ngoái bằng nguồn vốn tự có cộng thêm vay một ít từ ngân hàng để xây thêm một trại heo nái quy mô thêm 400 con và 800 con heo thịt.
Số heo tăng thêm này đang mang về cho ông Trung mỗi tháng hàng trăm triệu đồng do giá heo hơi trên thị trường đang dao động 48.000 – 50.000 đồng, cao hơn rất nhiều so với chi phí bỏ ra.
Chạy theo… Trung Quốc
Nhiều người chăn nuôi như ông Trung đang thu lãi khủng từ đàn heo do bán được giá cao. Theo tính toán, biên lợi nhuận nuôi heo được duy trì trong thời gian khá dài ở mức từ 20 – 25%, là động lực hấp dẫn để hầu hết người chăn nuôi mạnh dạn đầu tư tăng đàn.
Dù chưa có con số thống kê chính thức, nhưng ước trong khoảng hơn một năm trở lại đây, đàn heo cả nước đã tăng ít nhất 25% từ điểm xuất phát cuối năm 2014 vào khoảng hơn 40 triệu con.
Phó tổng giám đốc một công ty chăn nuôi heo chiếm thị phần lớn nhất hiện nay, nói đã có gần 10 triệu con heo được nông dân nuôi thêm từ đầu năm 2015.
Cung tăng mạnh, heo hơi vẫn cháy hàng, giá tăng, chỉ có một câu trả lời duy nhất là do sức cầu từ thị trường Trung Quốc.
Nhìn lại lịch sử giá heo, trước năm 2015 thì giảm thê thảm, qua đầu năm 2015 nhờ xuất khẩu được sang Trung Quốc nên giá bật tăng trở lại, và việc Trung Quốc duy trì nhập heo hơi từ đó đến nay đã giúp giá heo đứng ở mức cao.
Còn với sản lượng heo tăng đến 25% như hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, chắc chắn thị trường sẽ tụt dốc nếu một ngày nào đó Trung Quốc đột ngột ngưng mua hàng.
Đúc kết kinh nghiệm từ diễn biến giá cả nhiều năm qua, giám đốc một doanh nghiệp cho rằng: “Tổng đàn heo tăng 25%, khi gặp bất lợi đầu ra thì giá bán sẽ tụt ít nhất 30% so với chi phí sản xuất”.
Hơn mười năm qua, nghề nuôi heo ở Việt Nam đã chuyển dần sang mô hình chăn nuôi công nghiệp theo chuỗi khép kín.
Ngoài việc xây dựng được số lượng trang trại quy mô lớn trên khắp cả nước, nghề nuôi heo còn hình thành chuỗi hậu cần với hàng trăm, ngàn doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà máy cung cấp thức ăn, thuốc thú y, premix,
vắc xin, nhà máy giết mổ, chế biến thực phẩm.
Tuy vậy, nhìn tổng thể thì tình trạng chăn nuôi hiện nay, nhất là hơn một năm vừa rồi với sự phát triển tăng đàn ồ ạt, có thể thấy ngành này đang bộc lộ nhiều lỗ hổng chết người.
Đó là tình trạng phát triển lộn xộn, thiếu quy hoạch tổng đàn, nông dân, doanh nghiệp thiếu thông tin thị trường và đang bị thị trường Trung Quốc chi phối hoàn toàn. Chăn nuôi heo chạy theo phong trào, tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nông dân và doanh nghiệp.
Gặp nạn mới giật mình
Với cây lúa, nhiều tháng qua, trước tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra nghiêm trọng tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thì các nhà khoa học lẫn hoạch định chính sách mới giật mình đặt ra câu hỏi liệu chúng ta có cần phải duy trì diện tích trồng lúa mỗi vụ lên đến hơn 1,5 triệu ha ở vùng này nữa hay không?
Có ý kiến còn mạnh bạo cho rằng đã đến lúc các vùng nhiễm mặn, thiếu nước ngọt ven biển như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, một phần ven biển của tỉnh Tiền Giang nên chuyển qua nuôi trồng thuỷ sản, thay vì vẫn cố bám lấy cây lúa.
GS Võ Tòng Xuân thẳng thắn đề nghị mỗi năm các tỉnh ĐBSCL chỉ nên trồng hai vụ lúa ở các vùng nước ngọt.
Ngoài ra, theo GS Võ Tòng Xuân, thay vì mỗi vụ sản xuất 1,5 triệu ha thì nên giảm xuống còn 1 triệu ha là đủ, còn lại để cho đất có thời gian cải tạo hoặc chuyển đổi cây trồng, nuôi thuỷ sản. Những vùng không có lợi thế trồng lúa thì chỉ trồng một vụ thay vì hai ba như hiện nay.
Với con cá tra, con tôm xuất khẩu cũng đang xảy ra tình trạng thiếu hụt sản lượng nghiêm trọng, nguyên nhân cũng được cho là không có định hướng quy hoạch. So với các mặt hàng nông sản khác, con cá tra hay con tôm, đến nay đã hình thành những chuỗi cung ứng khép kín đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay, riêng ngành cá tra có hàng trăm nhà máy chế biến lớn nhỏ đạt tiêu chuẩn quốc tế; hàng ngàn ha mặt nước nuôi trồng kèm theo hệ thống nhà máy cung cấp thức ăn, thuốc thú y, tàu thuyền vận chuyển.
Nếu cộng lại, tổng tài sản hiện nay của ngành cá tra phải lên đến nhiều tỷ đôla, tuy nhiên, vì không được quy hoạch vùng nuôi, nhà máy một cách bài bản, không tính toán được nhu cầu thị trường nên nhiều năm nay, nông dân và doanh nghiệp luôn thất bại: nhà máy thức ăn lỗ tiền cám, người nuôi lỗ tiền bán cá, nhà máy lỗ tiền xuất khẩu, còn ngân hàng thì mất sạch vốn cho vay.
Tại các tỉnh ĐBSCL, những năm qua người ta từng “ném” hàng chục ngàn tỷ đồng đào ao nuôi cá nhưng đến năm 2016 này, sản lượng cá bỗng dưng cạn kiệt, nhà máy đang có nguy cơ phải đóng cửa hàng loạt.
Theo đại diện hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep), nhu cầu thị trường xuất khẩu cần mỗi năm khoảng 1,4 triệu tấn cá nguyên liệu, tương ứng với khoảng 30.000 tỷ đồng vốn đầu tư.
Nhưng trong suốt hai năm 2014 và 2015, do giá cá nguyên liệu và xuất khẩu giảm sút nên người dân thua lỗ, không còn tiền đầu tư, hậu quả là đến năm 2016 nguyên liệu bị hụt nghiêm trọng.
Việc nhà máy không có nguyên liệu chế biến đang gây ra thiệt hại khá lớn về kinh tế, cơ hội tiếp cận thị trường lẫn vấn đề an sinh xã hội.
“Ngành cá tra đang có quá nhiều bất ổn. Trong khi bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa làm tốt vai trò quy hoạch vùng nguyên liệu, thì Nhà nước cũng chưa quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt là vấn đề ưu tiên vốn cho nuôi trồng còn bỏ ngỏ”, đại diện Vasep nói.
Minh Khoa
Thế Giới Tiếp Thị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này