10:11 - 05/03/2017
Kinh tế nông nghiệp, không bền nếu chỉ cổ xúy tình thương
Làm nông nghiệp ở thời nào cũng là làm để tạo nguồn lực cho cá nhân, hộ gia đình, cho nền kinh tế, là làm ăn. Làm ăn, làm kinh tế theo kiểu kêu gọi, huy động mãi tình thương như vậy, e không phải là cách có thể vững bền.
Gary Becker, nhà kinh tế và xã hội học của Mỹ cho rằng nếu muốn áp dụng những kết quả nghiên cứu đầu tiên về kinh tế học tình thương của ông, đối với các trường hợp kinh doanh “theo phong trào” và nhờ tình thương làm “phương thức kinh doanh” phổ biến trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, rất có thể ông sẽ phát hiện nhiều điều khác biệt so với sự “cho đi” trong các nền kinh tế khác.
“Một miếng khi đói bằng 1 gói khi no”, “Lá lành đùm lá rách” (và gần đây còn được mở rộng phát huy là “lá rách ít đùm lá lành nhiều”… Tất cả những chân lý cuộc sống chia ngọt sẻ bùi vô cùng đáng được trân trọng, gìn giữ, phát huy mãi mãi, như một nét đẹp trong tâm hồn và cuộc sống của mỗi người.
Xã hội nhân văn
Người Việt Nam luôn tự hào về truyền thống nhân văn của dân tộc với các phẩm chất, đạo lý sẵn sàng cho đi thay vì nhận về, đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống.
Nhưng thật ra mà nói, không phải chỉ người Việt mới có truyền thống nhân văn, có sự cho đi thay vì nhận về. Đó là lý do khiến trên toàn cầu, tình thương trở thành “từ khóa” để các nhà kinh doanh nghiên cứu, đưa các lựa chọn phát triển sản phẩm, tiếp thị, marketing, bán hàng…sao cho đối tượng khách hàng nhắm đến của họ, có những quyết định, hành vi tích cực và tối ưu nhất cho hiệu quả của DN, dựa trên xúc tác của tình thương, không có nghĩa là “lợi dụng” hay “lạm dụng” tình thương.
Đó là chuyện vĩ mô và cũng là vi mô, cần được nghiên cứu đầy đủ để ứng dụng vào nền kinh tế đã hội nhập, vào thời khắc mà chúng ta đã xác định mọi giá trị nhân văn không là của riêng ai và không của riêng một phạm trù, lĩnh vực nào, càng không xa lạ với phạm trù kinh tế.
Song với ta, với người làm ăn kinh doanh ở Việt Nam, có lẽ do là một dân tộc đậm tính nhân văn và đầy lòng trắc ẩn, xúc cảm, vị tha, tình thương trên thực tế nhiều khi vẫn trở thành một phương tiện chủ yếu cho kết quả kinh doanh của một làng, một vùng, một lĩnh vực… Tình thương khi ấy không còn là tiềm ẩn, để được nghiên cứu rồi tạo chất xúc tác vào quyết định hành vi của đối tượng nghiên cứu, mà là tình thương được kêu gọi trực tiếp, được trở thành một công cụ đánh vào lòng hảo tâm mong được trợ giúp của cộng đồng đối với làng, vùng, lĩnh vực…
2 giải pháp “giải cứu” kinh tế dựa vào tình thương: – Nghiên cứu thị trường để thông tin cho đầy đủ trong mối liên kết 4 nhà: Nhà quản lý – Nhà phân phối – Nhà sản xuất – Nhà tiêu dùng. Trong trường hơp với các mặt hàng nông nghiệp liên quan đến từng vùng, lĩnh vực, các cơ quan quản lý cần có chiến lược, kế hoạch, thông tin nghiên cứu công bố đến người sản xuất thế mạnh, lợi thế sản xuất của ngành, vùng, dự báo nhu cầu thị trường, sản lượng, các vấn đề cần lưu ý về rủi ro; đặc biệt là các thị trường lân cận và trọng điểm.
– Đặt mục tiêu để DN Việt, hàng Việt luôn làm chủ thị trường nội địa, khai thác tốt thị trường tiêu thụ 100 triệu dân với các nhà máy chế biến sâu nông sản theo tiêu chuẩn chất lượng cao, giá thành phù hợp, trên cơ sở lập quy trình quản lý giám sát phân phối thu mua không ép giá nhà nông. Điều này cũng cần những thông tin chính thống, tin cậy, chính sách khuyến khích DN phát triển thị trường, bên cạnh chính sách hỗ trợ nông nghiệp hiện hữu.
Nhưng không thể có thị trường bằng… tình thương
Sự chia sẻ của cộng đồng với bà con nông dân ế dưa hấu, ế cà chua, ế vải, ế chuối, ế chanh… trong rất rất nhiều năm qua trở thành một hiện tượng lặp đi lặp lai trong nền kinh tế đang cố thoát thuần nông và định hướng nông nghiệp công nghệ cao. Sự chia sẻ ấy xin khẳng định lần nữa là đáng quý khi bà con liên tục bị ép giá, bị thương lái bỏ rơi khi được mùa mất giá… Nó chứa đầy giá trị của lòng nhân văn “lá lành đùm lá rách”.
Nhưng chúng ta có bao giờ dừng lại, đặt câu hỏi 1 giây với chính những người nông dân sản xuất nông nghiệp, những chủ trang trại kinh doanh ở mọi quy mô: Tại sao họ không chọn hướng kinh doanh bền hơn, kinh doanh có sự nghiên cứu, trì chí, hoạch định “trồng cây gì, nuôi con gì, bán cho ai” một cách khoa học thay vì “nhẹ dạ”? Đáng nói cái sự “nhẹ dạ” ấy cứ mãi năm này qua năm khác luôn trượt trên con đường nhìn sản phẩm nông sản nào năm nay bán chạy, đắt hàng, được giá thì chạy theo, bỏ “cũ lấy mới” để chuyên canh loại được kì vọng giá cao hơn? Chúng ta không dừng lại 1 giây để tự hỏi mình: Những người nông dân, tách ra là những hộ “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, cụm lại là những hợp tác xã, những làng, những vùng…
Họ trượt trên con đường như vậy là vì ít thông tin, ít được sự quan tâm của các nhà làm chiến lược, chính sách cho nông nghệ, ít kĩ năng hoạch định câu chuyện làm ăn hợp thời; hay kiểu kinh doanh này cứ mãi được duy trì là còn bởi: còn có Nhà nước “bình ổn”gạo, còn có cả ộng đồng nghĩa tình ở phía sau?
Làm nông nghiệp ở thời nào cũng là làm để tạo nguồn lực cho cá nhân, hộ gia đình, cho nền kinh tế, là làm ăn. Làm ăn, làm kinh tế theo kiểu kêu gọi, huy động mãi tình thương như vậy, e không phải là cách có thể vững bền.
Đỗ Thanh Năm – Chủ tịch HĐQT Công ty Tư vấn Chiến lược Win-Win
Theo Diễn Đàn Doanh Nghiệp
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này