22:18 - 14/06/2017
Vốn Trung Quốc dồn dập vào Việt Nam, quan ngại không thừa…
Vốn đầu tư Trung Quốc rót vào Việt Nam, cả qua kênh đầu tư trực tiếp và gián tiếp, đang tăng mạnh từ đầu năm tới nay có thể mang tới nhiều quan ngại, trong bối cảnh các dự án đầu tư có liên quan tới các nhà thầu hoặc nhà đầu tư Trung Quốc trước đó đều cho thấy chất lượng kém.
Báo cáo về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Cục Đầu tư Nước ngoài cuối tháng Năm vừa qua cho thấy tổng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam trong năm tháng đầu năm là 12,13 tỷ USD. Con số trên bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký tăng thêm và cả vốn góp mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam. Các đối tác đầu tư lớn của Việt Nam dẫn đầu vẫn là Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore, nhưng điều đáng chú ý nhất là sự nổi lên của Trung Quốc.
Nắm bắt cơ hội
Tính từ đầu năm tới nay, Trung Quốc là quốc gia đầu tư lớn thứ tư vào Việt Nam, với hơn 1 tỷ USD. Nhưng nếu tính cả vốn đầu tư từ Đài Loan và đặc khu kinh tế Hong Kong thì tổng vốn đầu tư của các nhà đầu tư Trung Quốc đổ vào Việt Nam trong cùng thời gian qua là 2,3 tỷ USD.
Nếu như trước đây phần lớn vốn đầu tư Trung Quốc được thực hiện qua hình thức liên doanh, hoặc đầu tư trực tiếp mới, nhưng năm nay góp vốn mua cổ phần lại đang là một xu thế mới của nhà đầu tư Trung Quốc tại Việt Nam.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trung Quốc là đối tác góp vốn mua cổ phần lớn thứ hai tại Việt Nam, chỉ sau Hàn Quốc, trong năm tháng qua. Cụ thể, Hàn Quốc có hơn 580 lượt góp vốn, mua cổ phần doanh nghiệp Việt. Còn Trung Quốc đại lục có hơn 300 lượt góp vốn mua cổ phần. Nếu tính cả phần vốn góp mua cổ phần doanh nghiệp Việt của các nhà đầu tư đến từ vùng lãnh thổ Đài Loan, đặc khu Hồng Kông, số lượt góp vốn mua cổ phần Việt có yếu tố Trung Quốc là hơn 568 lượt.
Tốc độ tăng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ được thấy rõ hơn nếu so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, trong năm tháng vừa qua, tổng vốn của Trung Quốc đã tăng gấp 2 lần, trong đó, vốn mua cổ phần tăng hơn 10 lần so với năm tháng đầu năm 2016.
“Việt Nam đang trong một giai đoạn rất giống với Trung Quốc 10 năm về trước, và bây giờ chính là thời điểm vàng, nhiều cơ hội đã qua ở Trung Quốc đang và sẽ lặp lại ở Việt Nam, và chúng tôi sẽ nắm bắt lấy chúng một lần nữa”, ông Chen Bin, nhà sáng lập quỹ đầu tư Đệ Nhất Hải Ngoại, Trung Quốc.
Trong hai năm qua ông cùng một nhóm nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Ông Chen cho biết cổ phiếu ở các ngành chứng khoán, ngân hàng, y tế, công nghệ thông tin và tiêu dùng sẽ là những “món hàng” hấp dẫn với các nhà đầu tư Trung Quốc như ông.
“Đó là những ngành mà trong ba năm tới chúng tôi dự đoán là sẽ tăng trưởng rất mạnh. Thậm chí có ngành sẽ tăng trưởng gấp 5 gấp 10 lần hiện nay,” ông Chen nhận định.
Những lo lắng từ thực tế
Thực tế, vốn đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam tăng cũng phù hợp với xu hướng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc. Năm 2016 các doanh nghiệp và nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư ra nước ngoài 183 tỷ USD, tăng 44% so với năm 2015, và đưa Trung Quốc trở thành quốc gia có vốn đầu tư ra nước ngoài lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ.
Với một quốc gia đang phát triển và cần vốn đầu tư như Việt Nam, đón nhận thêm làn sóng đầu tư từ bên ngoài vào là cần thiết. Nhưng đối với dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc, một số chuyên gia kinh tế cũng đã bày tỏ sự quan ngại nhất định.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng Trung Quốc đang nâng tầm công nghệ của họ nên có một số ngành sử dụng công nghệ thấp hoặc lạc hậu thì Trung Quốc không ủng hộ để cho hoạt động trong nước và như vậy họ tìm cách chuyển ra nước ngoài. “Việt Nam là một nền kinh tế mà trình độ phát triển còn thấp, rất dễ bị tiếp nhận dòng sản phẩm như vậy,” bà Lan nói.
Sự lo lắng của bà Lan có thể xuất phát từ chính những dự án lớn không hiệu quả có liên quan tới các nhà thầu hoặc nhà đầu tư Trung Quốc. Trong đó, có thể kể đến dự án nhà máy đạm Ninh Bình. Với tổng vốn đầu tư lên tới 11.000 tỷ đồng, thế nhưng nhà máy này đã phải tạm dừng hoạt động do lỗ lũy kế hơn 2.000 tỷ đồng. Đại diện của nhà máy này thừa nhận, sự thiếu hiệu quả của dự án xuất phát từ việc chi phí sản xuất quá cao, dây chuyền máy móc thiết bị lạc hậu, thường xuyên gặp sự cố.
Đáng chú ý là dây chuyền máy móc của nhà máy này chủ yếu được nhập bởi nhà thầu Trung Quốc. Dự án thứ hai có thể kể đến là dự án mở rộng nhà máy gang thép Thái Nguyên. Khởi công từ năm 2007, song đến nay, nhà máy vẫn chưa thể đi vào hoạt động. Số lượng máy móc được nhập từ Trung Quốc của dự án này cũng đang có nguy cơ đắp chiếu do lạc hậu.
Tất nhiên, trong một nền kinh tế hội nhập, Việt Nam không thể ngăn cản được dòng vốn đầu tư Trung Quốc. Nhưng theo nhiều chuyên gia kinh tế, quá trình chọn lọc và phê duyệt các dự án đầu tư cần phải được thực hiện chặt chẽ để đảm bảo các công nghệ lạc hậu từ Trung Quốc không “có chân” chạy sang Việt Nam.
Theo DĐDN
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này