10:53 - 02/05/2017
Mô hình quản trị doanh nghiệp đang lạc hậu
“Chất lượng quản trị DN của Việt Nam so với các nước trong khu vực đang ở mức báo động, điều đáng nói hơn, nó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cổ phần hóa của DNNN”.
Đây là nhận định của ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).
Theo ông Hiếu, một nghiên cứu của Hội đồng đánh giá quản trị DN ASEAN mới đây đã cho thấy, quản trị DN của Việt Nam kém rất xa so với các nước trong khu vực. Việt Nam chỉ đạt điểm 3,5/10, trong khi Thái Lan là 8,4/10, Malaysia là 7,5/10, Indonesia là 5,7/10, Philipine là 6,7/10…
– Tình trạng báo động về chất lượng quản trị DN này có nguyên nhân sâu xa từ đâu, thưa ông?
– Nói là báo động không “oan”, bởi vì, nghiên cứu này so sánh các DN niêm yết Việt Nam so với các DN trong khu vực. Đây là các DN có mô hình quản trị DN tiên tiến nhất của chúng ta hiện nay.
Nếu so sánh về khung khổ pháp lý quản trị DN chúng ta cũng không phải quá kém. Nhưng đáng lo ngại là mô hình quản trị DN ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng đã lạc hậu so với thế giới.
Mặc dù, Luật DN 2014 đã đưa mô hình quản trị mới theo thông lệ quốc tế vào Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế áp dụng ở Việt Nam sau 2 năm Luật DN có hiệu lực thi hành, phần lớn mọi người còn chưa hình dung được mô hình mới được tổ chức và hoạt động ra sao. Hiện số lượng DN áp dụng mô hình quản trị mới chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông vừa diễn ra, Vinamilk là DN tiên phong tuyên bố sửa đổi điều lệ, chuyển sang áp dụng mô hình quản trị mới. Đồng thời tăng số thành viên HĐQT độc lập từ 2 người lên 5 người trong tổng số 9 thành viên HĐQT.
– Đối với các DN có phần vốn nhà nước thì áp dụng mô hình quản trị DN mới như thế nào, thưa ông?
– Một trong những kinh nghiệm quốc tế quan trọng có thể áp dụng vào Việt Nam là tách bạch vai trò sở hữu vốn và quản lý điều hành DN. Có nghĩa người đại diện phần vốn nhà nước không nhất thiết phải là người điều hành, quản lý DN. Nguyên tắc tách bạch hoàn toàn vai trò sở hữu vốn với quản lý, điều hành công ty rất cần được triển khai. Điều này đồng nghĩa với việc phải thuê giám đốc.
Thực tế, mâu thuẫn trong quản trị DN có vốn nhà nước hiện nay thường rất nghiêm trọng. Bởi vì với cách thiết kế khung khổ quản trị như hiện nay khiến người đại diện phần vốn tại các DN thường được bầu vào người quản lý DN, có thể là chủ tịch HĐQT, TGĐ… do đó phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi. Thậm chí, họ chỉ chăm chăm vào việc tranh quyền điều hành, quản lý DN.
Bên cạnh đó, nếu là người đại diện phần vốn nhà nước thì người đó phải làm sao phát huy tối đa lợi ích cho phần vốn mà mình đại diện. Trong khi là người quản lý DN thì người đó phải làm sao tối đa hoá lợi ích của toàn bộ các cổ đông. Xung đột lợi ích khiến vai trò người đại diện phần vốn NN rất khó hoàn thành tốt trách nhiệm.
Mặt khác, chúng ta phải làm rõ trách nhiệm của người quản lý, điều hành DN. Luật DN có quy định về quyền và nhiệm vụ của người quản lý DN. Nhưng như vậy là chưa đủ. Vấn đề là người quản lý DN phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó như thế nào? Chữ đúng quy trình của ta nhìn ở góc độ quản trị DN là hoàn toàn vi phạm luật DN. Bởi vì, nếu người đó thực hiện đúng quyền và nhiệm vụ nhưng chỉ cần không thực hiện một cách cẩn trọng thì họ đã vi phạm nghĩa vụ của mình. Như vậy, đồng nghĩa với việc họ phải chịu trách nhiệm cá nhân về bồi thường các thiệt hại gây ra.
– Luật DN đã đưa ra những quy định về mô hình quản trị DN tiên tiến. Ông đánh giá thế nào về tính thực thi pháp luật quản trị DN?
– Trong thực thi quản trị DN đòi hỏi tính tự thi hành rất cao. DN phải tự tuân thủ thay vì các luật khác như luật hình sự nếu ai đó có dấu hiệu vi phạm thì vì lợi ích nhà nước họ sẽ bị cưỡng chế xử lý. Còn ở quản trị DN nếu vi phạm thì nó sẽ ảnh hướng tới lợi ích của chính họ. Việc thực thi các luật về quản trị DN chủ yếu từ sức ép của thị trường.
Quản trị DN cần có nhiều áp lực từ cạnh tranh thị trường và từ bên thứ ba buộc họ phải thay đổi. Ví dụ ở Malaysia, các nhóm cổ đông nhỏ lẻ được tập hợp lại để có thể có tỷ lệ biểu quyết các quyết trong DN. Nhờ đó, họ có thể gây sức ép đối với cổ đông lớn và HĐQT. Ở Việt Nam cũng rất cần phải xây dựng những định chế như vậy.
– Thực tế đã có nhiều cổ đông nhỏ muốn khởi kiện nhưng không đủ khả năng. Điều này do quy định pháp luật hay hệ thống xét xử chưa đáp ứng được, thưa ông?
– Theo Luật DN, quyền khởi kiện của cổ đông nhỏ được quy định rất tốt. Thậm chí, chi phí khởi kiện DN sẽ phải chi trả, bồi hoàn trong nhiều trường hợp. Nhưng quan trọng nhất là một cổ đông nhỏ có rất ít động cơ và khả năng về mặt vật chất, con người nếu khởi kiện. Nhưng với tổ chức trung gian đại diện cho các nhóm cổ đông thì lại khác. Họ sẽ có trình độ cao hơn, chuyên nghiệp hơn, biết cách tốt hơn để bảo vệ lợi ích cổ đông.
Mặc khác, hệ thống khởi kiện của chúng ta chưa phù hợp. Ở các quốc gia, để thực hiện tốt chế định quản trị DN họ có hệ thống khởi kiện phái sinh. Bởi vì, đối với kiện dân sự, nghĩa vụ phải chứng minh thiệt hại thuộc về người khởi kiện. Trong khi, cổ đông nhỏ lẻ thì làm gì có đủ thông tin. Còn với kiện phái sinh, người quản lý phải chứng minh tôi trung thành, trung thực và cẩn trọng.
– Xin cảm ơn ông!
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này