11:00 - 07/12/2017
Ngổn ngang chuyện đào tạo y khoa
Gặp người viết tại hội thảo giáo dục y khoa Việt Nam cuối tuần qua ở TP.HCM, bác sĩ P., giám đốc một cơ sở y tế lớn, nhận xét: “Đào tạo y khoa ở nước ta không khác gì một cửa hàng bách hoá vì ở đó có quá nhiều sản phẩm và thật, giả khó xác định”.
Nhận xét của bác sĩ P. chắc hẳn được nhiều người đồng tình, dù có thể làm những người tham gia đào tạo y khoa phiền lòng. Nếu nói sản phẩm đầu ra của các trường đại học y khoa là bác sĩ, thì thực tế cho thấy chất lượng của các sản phẩm này có khá nhiều độ vênh.
Tại hội thảo, GS David Gordon, chủ tịch liên đoàn Giáo dục y khoa thế giới (WFME) cho biết trong danh bạ của WFME Việt Nam hiện có 13 trường dạy y khoa, nghĩa là 7 triệu dân có một trường y khoa, con số này quá ít so với Thái Lan – 3 triệu dân/trường, hay Philippines 2,5 triệu dân/trường.
Trường đào tạo ít nhưng số người học nhiều, nên chất lượng khó đáp ứng. Một nghiên cứu do đại học Y dược Hải Phòng thực hiện vào năm 2014, công bố tại hội thảo khiến người ta lo âu: hầu hết sinh viên chính quy chưa có phương pháp học tích cực trên lâm sàng, trong khi số lượng sinh viên thực tập lại quá đông, 20 – 40 sinh viên cùng học tại một giường bệnh, khiến chất lượng đào tạo bị ảnh hưởng đáng kể.
Nhưng sinh viên muốn học tốt cũng khó, vì nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều giảng viên lâm sàng chưa được tập huấn về phương pháp dạy và học lâm sàng, đặc biệt là giảng viên kiêm chức. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu học lâm sàng tại các bệnh viện còn thiếu và chưa đồng bộ.
Y khoa là một ngành thực hành, càng thực hành nhiều tay nghề càng nâng lên, nhưng với thực trạng như thế, đầu ra không thể bảo đảm chất lượng.
Để có một sản phẩm đầu ra tốt, đầu vào cũng phải đạt chuẩn nhất định, nhưng trong đào tạo y khoa ở nước ta nhiều năm qua điều này lại chưa được chú trọng vì nhiều lý do. Vì thế ở các trường dạy y khoa có vô số hệ đào tạo, từ chính quy, chuyên tu, cho đến cử tuyển, chưa kể điểm thi đầu vào cho nhiều đối tượng còn được hạ xuống.
Tại đại học Y dược Thái Nguyên, nơi sinh viên dân tộc thiểu số chiếm phần lớn (đến gần 37%), việc đào tạo y khoa gặp khá nhiều khó khăn. Khảo sát của nhà trường cho thấy các sinh viên này nhận thức khá hạn chế, tiếp nhận thông tin chậm, mức độ giao tiếp chưa tốt, sống tự ti và ngại tiếp xúc, thậm chí có sinh viên không nói thành thạo được tiếng Kinh. Thực trạng này đã khiến cho chất lượng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số quá thấp: 46,7% bị cảnh báo học vụ, 58,6% chưa tốt nghiệp đúng thời gian quy định.
Với những đặc điểm như thế, thử hỏi sinh viên ra trường làm sao đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đặc biệt là làm việc trong ngành y, ngành nghề gắn liền với sức khoẻ và tính mạng con người? Thật nguy hiểm khi một bác sĩ ra trường lại không thể giao tiếp tốt với bệnh nhân, chưa nói gì đến khám, chữa bệnh cho họ!
Những năm qua ở nước ta xảy ra khá nhiều sự cố y khoa nghiêm trọng ở mọi miền, chắc chắn điều này có liên quan đến chất lượng giảng dạy y khoa. Bác sĩ B. một giảng viên đại học y khoa ở TP.HCM, nhận định: “Có lẽ bộ Y tế nên làm một thống kê về bằng cấp đào tạo của các bác sĩ dính dáng đến các sự cố y khoa. Từ đó, sẽ biết được trường nào đào tạo chưa đạt chuẩn để có biện pháp chấn chỉnh. Chứ hiện tại ai cũng là bác sĩ, nhưng chất lượng lại khác nhau khá nhiều”.
Thực tế là nước ta cũng đã chi tiêu khá nhiều cho chăm sóc y tế, năm qua đạt 7,2% GDP, thuộc loại cao nhất trong khu vực. Thế nhưng theo GS Gordon, không phải chi tiêu nhiều là chất lượng chăm sóc y tế cũng tăng tương xứng. Nước Mỹ là thí dụ. Trong số 35 quốc gia thuộc tổ chức Phát triển và hợp tác kinh tế (OECD), chi tiêu y tế của Mỹ đứng đầu, nhưng tuổi thọ người dân Mỹ lại chỉ xếp thứ 27. Trong OECD nước Mỹ cũng đứng thứ 4 về tỷ lệ tử vong sơ sinh, đứng thứ 6 về tỷ lệ tử vong mẹ và đứng thứ 9 về số người chết trẻ do nhiều nguyên nhân, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Tình hình ở Việt Nam không khác mấy. Dù chi tiêu y tế nước ta nhiều, nhưng theo đánh giá của tổ chức Y tế thế giới (WHO), với con số 7 – 8 nhân viên y tế và 25 giường bệnh/10.000 dân, thấp nhiều so với số trung bình toàn cầu là 15 nhân viên y tế và 30 giường bệnh/10.000 dân, chất lượng chăm sóc y tế của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể.
Tại hội thảo giáo dục y khoa Việt Nam lần thứ nhất, các trường đã giới thiệu khá nhiều sáng kiến đào tạo, nhưng để nói được những sáng kiến này có tốt hay không thì còn cần thời gian và nhất là cần được kiểm định chất lượng. Làm sao để sản phẩm đầu ra – các bác sĩ – đủ khả năng giải quyết những vấn đề sức khoẻ ưu tiên mà cộng đồng đang có. Nói theo GS Gordon, giáo dục y khoa cần đến “một trách nhiệm giải trình xã hội”.
Phan Sơn
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này