08:48 - 17/01/2017
‘Danh dự của con người là làm một nhịp cầu’
Sáng đầu năm, màn hình vi tính hiện lên một tin trôi đến nhắc tôi: Hôm nay, Liên hiệp quốc (LHQ) có Tổng thư ký mới, ông Antonio Guterres, cựu thủ tướng Bồ Đào Nha. Đúng lúc này tôi cũng hoàn tất bài phỏng vấn chuyên gia Nguyễn Hữu Động, người gắn bó với LHQ suốt 32 năm.
Câu chuyện của ông buộc tôi đọc lại mấy chương của cuốn 70 năm ngoại giao của Việt Nam phát triển và ghi nhận lại, chính nhà ngoại giao tài hoa lỗi lạc của Việt Nam, Nguyễn Cơ Thạch, đã đưa ra chiến lược “ngoại giao kinh tế” và đưa Nguyễn Hữu Động cùng các chuyên gia trẻ Việt Nam bước vào thế giới hội nhập kinh tế, các diễn đàn quốc tế và LHQ, trở lại thành cầu nối cho kinh tế Việt Nam với thế giới…
– Thưa ông, có phải là ở LHQ, các chuyên gia vào làm việc thì không còn có quốc tịch riêng của mình?
– Thực ra, LHQ không cấp hộ chiếu. Họ cấp giấy thông hành (laissez-passer) trong đó chỉ ghi tối giản các thông tin (tên họ, ngày sinh, trách nhiệm, chức vụ) và tuyệt nhiên không ghi quốc tịch và học vị. Làm việc, không ai được xưng học vị, học hàm trước tên. Còn mỗi người vẫn có hộ chiếu sẵn của mình. Tôi có lúc có tới ba hộ chiếu do yêu cầu công việc. Còn trong công việc hàng ngày chẳng ai để ý đến quốc tịch người ngồi bàn bên cạnh. Họ không bao giờ hỏi anh, chị ở đâu đến. Tất cả đều nói ít nhất ba hay bốn ngoại ngữ, hai thứ là chính còn các ngoại ngữ khác, có khi chỉ cần người khác hiểu là được.
– Vậy ông được tuyển dụng vào LHQ theo cách nào thưa ông?
– Về tổ chức, LHQ có hai thực thể: (1) Ban thư ký LHQ và (2) Tổ chức LHQ gồm Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an và những tổ chức chuyên môn trực thuộc như FAO, UNICEF, UNESCO… Ban thư ký có hai loại chuyên viên: một là những người được nhà nước họ giới thiệu, hai là những người có chuyên môn cao được tuyển trực tiếp. Việt Nam có một chuyên viên giỏi được tuyển thẳng vào LHQ là chuyên gia thống kê Vũ Quang Việt.
Sau một thời gian làm cộng tác viên của cơ quan đại diện của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam ở Paris và của đại sứ quán ta sau ngày thống nhất, tôi được giới thiệu vào LHQ năm 1982, làm quen công việc đến 1984 thì được tuyển dụng.
– LHQ có nhiều văn phòng ở châu Âu, Mỹ. Ông làm việc nhiều nhất ở đâu?
– Hiện nay có khoảng 50 nghìn nhân viên LHQ đại diện cho gần 7 tỉ người. Tôi thường làm việc ở trụ sở chính, New York. Dân LHQ ở New York có một đặc điểm so với những chỗ khác là “tính giang hồ”. Nhà ở New York thường là nơi trú chân, ở vài tuần rồi làm vali đi công tác, đi vài ngày cũng có, vài tháng là thường. Nhà thì cho bạn mượn hay cho thuê. Bạn bè thì khắp nơi, ít gặp đôi vợ chồng nào mà hai người cùng một quốc tịch. Ngày lễ của họ là ngày lễ Tết của mọi người, mà gặp nhau là hỏi về những đồng nghiệp đang phiêu lưu đâu đó có khi không có bản đồ, không ai nhớ nổi.
Bản sắc dân tộc trong môi trường đa sắc tộc?
– Trong quan hệ đa phương, đa sắc tộc vậy, ông thường quan tâm vấn đề gì nhất?
– Trong bối cảnh đó, cũng ít thì giờ nhớ về nhà, nhưng cũng vì vậy mà tôi thường tự hỏi: làm sao và làm thế nào bảo tồn cái tạm gọi là “bản sắc dân tộc”? Bản sắc này đương nhiên thay đổi với thời gian và môi trường. Tôi không có câu trả lời ngay cho riêng tôi, dù luôn tự hỏi khi sống trong các phái đoàn LHQ: thế nào là người Việt Nam trong môi trường thế giới? Có điều đáng chú ý là khi tôi đang tự hỏi mình là ai thì chung quanh tôi người ta biết, anh này là người Việt Nam.
– Xin ông kể cho vài câu chuyện khiến ông nhận ra điều này?
– Năm ấy, tôi đi El Salvador, vừa làm cố vấn chính trị cho đoàn LHQ, vừa làm điều phối viên của miền Đông nước ấy. Trong đội của tôi, có khoảng 100 sĩ quan, cùng 30 luật sư và cán bộ hành chính và một đơn vị cảnh sát, công an hơn hai chục người, tất cả đều đến từ nhiều nước. Một hôm, đến thăm ban chỉ huy lữ đoàn đóng trong khu vực, tôi đi cùng một đại tá, người thứ hai trong đội tôi. Anh này trước đây chỉ huy trường đào tạo lực lượng đặc biệt Amazon của Brazil. Khi đã ngà ngà, anh ta vỗ phù hiệu LHQ trên vai, tuyên bố: ngày nào tôi bỏ cái huy hiệu này tôi sẽ kể về những trận tôi trừng trị đám phiến loạn cộng sản Brazil cho các bạn nghe. Thú thật nghe vậy tôi nổi nóng. Trong sự im lặng của bữa tiệc, tôi mở khuy áo sơmi đến cái thứ ba và nói: Ngày nào tôi bỏ áo LHQ, tôi sẽ kể thêm cho các bạn về những trận dân tôi đánh Mỹ ra sao. Nhưng ngay sau đó tôi cài lại khuy áo và cười: nhưng người có văn hoá ai lại cởi trần trước mặt mọi người được. Vậy mà sau đó, quan hệ tôi với anh đại tá tốt hẳn lên và chúng tôi vẫn còn liên lạc với nhau cho tới nay.
Ở Salvador, cũng có một chuyện hay hay khác. Khi tôi đi cùng đoàn quan sát ngừng bắn sang đó, vào phòng họp đông người có chủ toạ là phó Tổng thư ký LHQ để nghe bộ tổng tham mưu Salvador thông báo tình hình. Tay tướng phụ trách phòng nhì thay vì đứng trước mặt ông phó Tổng thư ký, lại đứng trước mặt tôi và nói: nếu các ông muốn hiểu từ chiến lược đến chiến thuật của mặt trận farabundo, xin đừng đọc Mao Trạch Đông hay Guevara, mà hãy đọc Võ Nguyên Giáp. Cả đoàn LHQ tủm tỉm cười.
Mấy năm sau, tôi sang Eritrea làm phó đoàn quan sát cuộc trưng cầu dân ý về độc lập Eritrea. Tôi gặp một vấn đề phức tạp: tù chính trị có quyền tham gia bỏ phiếu không? Tôi biết họ không có tên trong danh sách cử tri vì ở đây không coi họ là tù chính trị. Tôi bày tỏ với ông trưởng ban bầu cử: nếu họ là người có tội, thì đưa ra toà, xử tù thì bỏ tù, tước quyền công dân, không cho đi bỏ phiếu. Nhưng nếu chưa xử thì họ vẫn là công dân, phải cho tôi xem danh sách cử tri và tôi sẽ quan sát họ đi bỏ phiếu. Một tháng trước ngày bỏ phiếu, ông trưởng ban bầu cử mời tôi ăn cơm tại nhà. Tại đây, ông bộ trưởng nội vụ gặp tôi, đưa một tập giấy, xẵng giọng: Hiện có 126 tù chính trị, danh sách đây. Họ có bỏ phiếu hay không thì kết quả có gì thay đổi không mà lúc nào ông cũng đòi cho họ đi bỏ phiếu? Tôi nói: Thật ra, có 1.260 hay 12.600 người cũng không thay đổi gì trong kết quả. Nhưng nếu chỉ có một người không được bỏ phiếu thì bổn phận của tôi là nói lên tình hình, ở đây không có tự do bầu cử. Tuỳ ông quyết định thôi. Ông trầm ngâm một lúc và bảo tôi: Thôi được, chủ nhật sau, mời ông gửi người đến trại giam xem chúng tôi đưa họ vào danh sách cử tri. Ngày bỏ phiếu ông cũng trở lại nhà tù xem họ có tự do bỏ phiếu hay không. Nhưng tôi nói thật, tụi tôi nể ông là người Việt Nam đấy. Người khác thì tôi không nhịn đâu. Tôi cám ơn ông và với tư cách cá nhân, đề nghị ông cho những người này về nhà trong dịp ba ngày bỏ phiếu vì khi họ bỏ phiếu rải rác trong nhiều làng, nhiều vùng họ có chống thì là chuyện bình thường, có tự do thì có đối lập, các ông đỡ mang tiếng. Ông ta đồng ý. Sau ngày bỏ phiếu (phiếu thuận khoảng 96%), ông đến gặp tôi cám ơn và bảo: Nếu ông muốn, bất cứ lúc nào cũng có một hộ chiếu của Eritrea độc lập chờ ông.
Những câu chuyện còn dài, chuyện nào cũng có liên quan đến nguồn gốc, mình là người Việt Nam.
Tự hào hay xứng đáng?
– Hiện nay, ra nước ngoài, ta cũng thường nghe tình hình người Việt phạm pháp ở các nước. Ông thấy thế nào, có ảnh hưởng đến lòng tự hào dân tộc không?
– Câu hỏi của chị khiến tôi nhớ đến câu chuyện có một người, sau một chuyến đi nước ngoài đã tuyên bố là ông ta mặc cảm khi cầm hộ chiếu Việt Nam. Rồi rộ lên tranh cãi, ý phê phán sao ông không tự hào khi là người Việt Nam. Tôi nghĩ khác. Tôi là người Việt Nam, do số mệnh, do tạo hoá, do nơi tôi chào đời và tôi lớn lên với dòng máu đó, với lịch sử đó, với nền văn hoá đó. Còn thực tế hiện nay phức tạp hơn. Khi tuyên bố như vậy là ông chẳng biết bên ngoài người ta nghĩ gì, có những ưu tiên gì. Di dân là một hiện tượng toàn cầu và là một vấn đề phức tạp. Những nước phát triển sợ nhất là người nước ngoài (ở các nước nghèo hơn) sang rồi ở lại làm việc, nhất là khi mức thu nhập chênh lệch quá cao. Nên họ kiểm soát từ hộ chiếu, visa, tiền trong ngân hàng, gia đình, công ăn việc làm, v.v. Nghĩ kỹ lại, hèn mới nhục chứ nghèo thì không.
Tôi cho quan trọng hơn là cần suy nghĩ, ở nước ngoài, bạn sống ra sao, làm gì để xứng đáng với dân tộc, với nền văn hoá và lịch sử dân tộc bạn. Tôi tự hào về cha ông, về những nhà khoa học, những nhà cách mạng Việt Nam, những nông dân, thợ thuyền lao động bình thường của đất nước tôi. Và như thế tôi cũng phải làm sao cho con, cháu tôi tự hào về tôi, về gia tài tôi để lại. Tôi mong đó là mối trăn trở của những người quản lý đất nước tôi.
Cứ nghĩ đi, ở nhà, một kẻ cắp tên X bị phát hiện thì đó là một tên ăn cắp. Nhưng ở nước ngoài, X cũng đi ăn cắp thì người ta gọi người Việt Nam ăn cắp, không cần biết người ấy là ai. Bêu riếu cái tên Việt Nam qua những hành động phi pháp hay thiếu văn hoá, đó là vấn đề.
Danh dự của con người là làm một nhịp cầu (Nietzsche)
– Tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Pháp, sao ông không chọn con đường nghiên cứu hay làm gì khác mà trở thành viên chức LHQ?
– Sau tốt nghiệp, cũng có lúc tôi viết thư xin về làm việc ở nhà. Lãnh đạo bấy giờ xem xét khá lâu, cuối cùng anh Phạm Văn Ba (thành viên Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) nói với tôi: mình đã nhận được thư của cậu, nhưng mình nói thật, cậu có thể sống khổ như bọn mình được, nhưng còn vợ cậu (người Pháp) và con thì khó hơn nhiều. Tốt nhất là cậu ở lại, vừa lo cho gia đình, vừa là nhịp cầu giữa nhà với giới trí thức và chuyên môn bên này, cái đó là cách đóng góp thiết thực hơn. Sau đó tôi ở lại làm trợ giáo đại học Paris Nanterre (hiện là Paris Ouest) và vừa làm trong phòng kinh tế của đại sứ quán.
Từ năm 1979, tôi được bộ Ngoại giao cử đi tham gia một số cuộc họp quốc tế, như Vienne năm 1979, New York 1980, UNESCO Paris 1981 và Cấp cao Không liên kết 1983 tại Ấn Độ. Là chuyên viên kinh tế, nhưng thật ra việc chuyên môn chủ yếu là phân tích tình hình, tham mưu cho ngoại giao kinh tế Việt Nam, góp phần tạo thế đứng Việt Nam, vừa học thêm về cung cách làm ăn và suy nghĩ của cộng đồng thế giới. Tôi nhớ có một nhận xét của anh Vũ Hắc Bồng (nguyên Đại sứ Việt Nam tại Guinée, Mali, Mauritanie, Chile và Angola, sau là giám đốc Sở Ngoại vụ TP.HCM) mà tôi rất vui: thằng Động chơi được.
Gần đây, những anh như Võ Văn Sung (nhà ngoại giao, nguyên trợ lý bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Pháp, Hà Lan, Bỉ, Luxemburg và Nhật Bản) hay Bùi Xuân Nhật đã viết nhiều về thời ngoại giao làm kinh tế và các anh cũng nhắc tới vai trò của tôi trong cuộc tìm hiểu của bộ Ngoại giao Việt Nam về kinh tế thị trường, về chính sách mở cửa hội nhập. Tôi chỉ mong mình thực sự là một nhịp cầu, nối giữa những suy nghĩ và nền học thuật Việt Nam thời đóng cửa, bao cấp, thời mà tư tưởng kinh tế còn mang nặng dấu ấn Liên Xô, với lại nền học thuật kinh tế phương Tây mà hiện nay mỗi ngày mỗi phát triển không ngừng.
Nietzsche từng nói: Danh dự của con người là làm một nhịp cầu. Đọc Nietzsche, tôi nhớ anh Phạm Văn Ba (thành viên Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) vô cùng. Anh và nhiều anh, chị khác đã dạy tôi những suy nghĩ nhịp cầu, những suy nghĩ và những tác phong của một chuyên viên và của một công dân.
– Anh đi ra ngoài nhiều và cũng hiểu sâu nội tình nhiều nước anh đến công tác. Anh nghĩ gì về tình hình phát triển của Việt Nam?
– Những năm qua, tôi hay về nước chơi. Rồi lại tiếp tục đi công tác qua các nước. So với những nước mà tôi đã đi qua, những nước đã ra khỏi chiến tranh sau ta, tránh sao được những tiếng thở dài? Trăn trở với những điều sâu thẳm, không phải với quản lý nhà nước, hay vận mệnh chính trị. Ngay như mấy hôm nay, đọc những bài báo về chuẩn bị Tết, mơ hồ thấy ngày vui truyền thống của dân tộc đang trở thành những xung đột gia đình, những nỗi lo bộn bề về kinh tế – xã hội. Mà nói đến truyền thống là nói đến văn hoá, đến lịch sử, đến bản sắc…
– Câu cuối cùng. Nghe nói anh thường nghe nhạc Trịnh Công Sơn một mình?
– Nhiều năm xa nhà không nghe, không được nói tiếng Việt, tôi thường mở nhạc Trịnh Công Sơn nghe. Nhớ tiếng Việt quá. Nhạc Trịnh có phải là một nhịp cầu nối tôi với đất nước không, thú thật tôi không trả lời được. Trong nhạc của Sơn phảng phất triết lý Phật giáo. Tôi “cảm” nhận tâm Phật của Sơn trong nhạc của anh khá rõ. Nhạc của anh cũng là thơ. Trịnh Công Sơn là cả hai, thích thì thích, không giải thích, và có khi nghe mà không cần hiểu ý của tác giả nữa. Mưa hồng, Diễm xưa hay Tôi ru em ngủ, nghe đi nghe lại nhưng tôi không thuộc lời. Nói cách khác, tính thơ, tính người của Sơn đối với tôi quan trọng hơn nhạc. Cũng có thể vì vậy mà Sơn làm tôi nhớ nhà hơn các nhạc sĩ khác chăng?
Kim Hạnh
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này