09:17 - 14/06/2019
Trăm tiêu chuẩn đổ đầu thuỷ sản
Trong số các mặt hàng nông lâm thuỷ sản có tham gia xuất khẩu, thuỷ sản “gánh” nhiều tiêu chuẩn nhất, và là sản phẩm chịu nhiều điều tiếng nhất trên thị trường quốc tế.
Từ thập kỷ cuối của thế kỷ 20, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ghi những dấu ấn đầu tiên, cả về tốc độ tăng trưởng lẫn bê bối an toàn thực phẩm và gian lận thương mại (chloramphenicol, nhiễm vi sinh, tạp chất trong tôm). Giai đoạn này, SEAQIP, chương trình do quỹ Hỗ trợ phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA) tài trợ, nhằm giúp doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, cơ bản là HACCP trong các nhà máy chế biến.
Song song đó, chương trình quản lý dư lượng do trung tâm Đảm bảo chất lượng thuỷ sản quốc gia (NAFIQACEN) cũng được triển khai, với mục đích quản lý tốt hơn dư lượng trong thuỷ sản trước khi xuất khẩu. Tuy nhiên, khi vấn đề dư lượng tưởng chừng như đã giải quyết được thì vấn đề khác lại nảy sinh…
Sự phát triển ngành tôm đi cùng với hệ luỵ tất yếu là phá rừng và đập ngăn mặn ở các tỉnh duyên hải Tây Nam bộ, khiến các tổ chức hoạt động vì môi trường đứng ngồi không yên. Đây là tình trạng chung ở các nước phát triển chứ không riêng gì Việt Nam, người ta cho rằng lợi nhuận từ con tôm quá lớn, khó có thể cưỡng lại. Một trường hợp điển hình là ở Ecuador, chính phủ “tế thần” rừng ngập mặn, một lựa chọn được cho là nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sau con tôm, với thành tựu sinh sản nhân tạo thành công đã mở đường xuất khẩu cho cá tra Việt Nam, giá bán những năm 1990 vào khoảng 4 USD/kg phi lê. Người ta bỏ ruộng để đào ao nuôi cá.Muốn cá nuôi thịt trắng, giá bán cao hơn, các công ty không ngần ngại ra các cồn lớn, nhỏ ngoài sông Hậu, sông Tiền để… đào ao. Sạt lở là chuyện bình thường, có nơi “sáng tạo” xây mũi tàu bê tông ở các đầu, thế là vấn đề được giải quyết, việc sạt lở chuyển từ ngoài cồn vô đất liền (do dòng chảy bị thay đổi), người dân chịu không thấu, vậy là thưa kiện.
Tuy nhiên, điều lo ngại nhất với nuôi cá tra chính là nước thải. Vì rằng tấc đất tấc vàng, nên việc chừa ra 30% cho các công trình phụ trợ xem ra rất viển vông! Ở các vùng nuôi cá tra, nhiều người địa phương khi được phỏng vấn nói rằng họ không còn dám lấy nước sông làm nước sinh hoạt như hồi xưa nữa, cho dù chỉ để giặt đồ.
Thế nên, không có gì là khó hiểu khi các tiêu chuẩn nuôi trồng thuỷ sản có trách nhiệm đòi hỏi người nuôi phải có bằng chứng cho thấy: không phá rừng, phá khu bảo tồn để nuôi thuỷ sản; bùn lắng và nước thải không được làm nhiễm mặn và gây ô nhiễm môi trường đất, nước xung quanh; phải có một đánh giá toàn diện về tác động kinh tế – xã hội đối với cộng đồng địa phương, đặc biệt là nuôi tôm đòi hỏi phải đánh giá thêm về tác động đối với đa dạng sinh học.
Như vậy, thuỷ sản nuôi xuất khẩu, ngoài chi phí đánh giá chứng nhận cho nhà máy, còn phải gánh thêm khoản phí cho đánh giá vùng nuôi, thực hiện các tiêu chuẩn môi trường, xã hội. Đó là chưa kể khi vào các hệ thống phân phối như Walmart, Whole Foods lại phải chịu thêm các đánh giá về trách nhiệm xã hội, nhiều “gánh” là như vậy. Nhưng câu chuyện lại chưa chịu dừng ở đây.
Thức ăn, đầu vào của nuôi trồng thuỷ sản tưởng chừng như vô can mà vẫn phải “gánh” một gánh khá nặng về khai thác bền vững biển. Với lập luận rằng thức ăn có thành phần bột cá (từ khai thác), nên nuôi thuỷ sản và khai thác quá mức nguồn lợi biển có quan hệ hữu cơ với nhau. Trừ khi đưa ra được bằng chứng thuyết phục về các nỗ lực thúc đẩy khai thác bền vững biển, các nhà sản xuất thức ăn sẽ không thể tham gia vào chuỗi xuất khẩu, hoặc là sản phẩm thuỷ sản cuối sẽ không được chứng nhận. Vấn đề này phức tạp và quá tầm của các nhà máy thức ăn cũng như doanh nghiệp chế biến bột cá, nhà cung cấp của họ.
Thứ nhất, quản lý hoạt động đánh bắt thuộc về nhà nước. Thứ hai, nghề đánh bắt thuỷ sản ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á là đa loài, hiện thế giới chưa có phương pháp cho đánh giá nghề cá đa loài. Vấn đề này vẫn đang được các bên liên quan thảo luận, và dĩ nhiên trước khi giải pháp được đưa ra, chuỗi thức ăn vẫn phải đóng góp rất nhiều tiền của cho việc cập nhật thông tin và chứng minh các nỗ lực trong khả năng của mình.
Có thể kết luận rằng, phía sau những con số ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu, chuỗi thuỷ sản nuôi trồng xuất khẩu phải đương đầu với nhiều thách thức mà mức độ khó vẫn tiếp tục tăng theo thời gian, cùng với gia tăng của biến đổi khí hậu và các hệ luỵ về môi trường đã được biết.
Kim Thanh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này