16:45 - 17/05/2018
Vì sao các nước quan ngại chính sách ‘gài bẫy tín dụng’ của Trung Quốc?
Các khoản vay từ Bắc Kinh với giá trị lên tới hàng tỷ USD đang trở thành gánh nặng khổng lồ đối với nhiều quốc gia nhỏ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Báo chí Australia ngày 14/5 công bố nội dung bản báo cáo mới của một cơ quan nghiên cứu độc lập dành cho Bộ Ngoại giao Mỹ, nhận định Bắc Kinh đang cho vay hàng tỷ USD để lôi kéo hàng chục nước nhỏ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương – những nước nghèo không khả năng chi trả, vào quỹ đạo phục vụ chiến lược kinh tế và quân sự của Trung Quốc trong 30 năm tới đây.
Bản báo cáo cho biết có 16 nước bị Trung Quốc xem là đối tượng của chiến lược “bí kíp ngoại giao nợ” và khống chế. Trong số những cái tên rơi vào kế hoạch “Vành đai và Con đường” có Vanuatu, Philippines, Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Sri Lanka, Tonga và Micronesia.
Theo The Australian Financial Review, một trong những trường hợp điển hình là Papua New Guinea, một quốc đảo nằm trong ảnh hưởng lịch sử của Australia, vì nợ nần Trung Quốc không trả được, phải chấp nhận trở thành một địa điểm chiến lược của Bắc Kinh và nhượng tài nguyên thiên nhiên cho Trung Quốc khai thác. Trung Quốc cũng đang tiến hành thương lượng sơ bộ với quốc đảo Vanuatu để lập căn cứ hải quân chỉ cách Australia 2000 km.
Trong số các nước Đông Nam Á, Campuchia và Lào đã trở thành “chi nhánh 100% của Trung Quốc”. Các chuyên gia tác giả của bản nghiên cứu lo ngại Trung Quốc sẽ sử dụng Campuchia, Lào và Phippines như những “lá phiếu phủ quyết ủy nhiệm”, làm tê liệt hiệp hội ASEAN trong những nỗ lực nhằm chống lại việc Bắc Kinh tranh đoạt chủ quyền tại Biển Đông – con đường huyết mạch của hàng hải quốc tế.
Thực tế, Lào và Campuchia đã vay số tiền khá lớn từ Trung Quốc, và ủng hộ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, dù Bắc Kinh cho tới nay vẫn cương quyết phớt lờ phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài ở La Haye. Theo một số ước tính, Trung Quốc đã đầu tư khoảng 6,7 tỷ USD vào 760 dự án tại Lào, hơn gấp đôi Tổng Sản phẩm Quốc nội (GDP) của quốc gia Đông Nam Á này.
Chuyên gia Sam Parker, đồng tác giả bản báo cáo cho biết Trung Quốc sẵn sàng bỏ ra “hàng trăm tỷ USD, cho các nước không có khả năng thanh toán, vay mượn với dụng ý có qua có lại”.
Để đối phó với chiến lược bành trướng sức mạnh của Trung Quốc, bản báo cáo khuyến khích chiến lược hợp tác khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương bao gồm tứ cường là Mỹ, Nhật, Australia và Ấn Độ, nhằm tăng cường vai trò của New Delhi và phát huy trật tự dựa trên nền tảng của khu vực. Bản báo cáo mới dành cho Bộ Ngoại giao Mỹ có nhiều điểm tương đồng với chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền Tổng thống Donald Trump được công bố tháng 12/2017.
Washington cảnh báo công luận thế giới là Trung Quốc đang thi hành một chính sách “gài bẫy tín dụng” để phục vụ tham vọng bá quyền. Các khoản vay từ Bắc Kinh với giá trị lên tới hàng tỷ USD đang trở thành gánh nặng khổng lồ đối với nhiều quốc gia nhỏ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong khi lại tạo ra cho Bắc Kinh những ảnh hưởng lớn về mặt kinh tế để tiến tới thao túng quyền lực chiến lược và quân sự. Đây là nhận định của các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Harvard trong báo cáo trình Bộ Ngoại giao Mỹ mới đây.
Andrew Shearer, cố vấn cấp cao về vấn đề an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington, cho rằng phần lớn các khoản viện trợ phát triển của Trung Quốc đều là dưới dạng cho vay chứ không đơn thuần là viện trợ không hoàn lại như của Australia và phương Tây. Ông Shearer bình luận: “Việc thiết lập một căn cứ quân sự tại một trong số các hòn đảo then chốt, gần với cửa ngõ phía Bắc (của Australia) đều sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng… Australia vẫn là một quốc gia có ảnh hưởng trong khu vực và là nước cung cấp viện trợ quan trọng, song Australia cần đẩy mạnh hợp tác và phối hợp các nỗ lực của mình chặt chẽ hơn với các đối tác như New Zealand, Nhật Bản và Mỹ”.
Báo cáo của Harvard nhấn mạnh việc các nước Thái Bình Dương ngả về phía Trung Quốc sẽ hủy hoại những ảnh hưởng chiến lược của Mỹ và tác động tiêu cực tới hoạt động của các căn cứ mà Mỹ có trong khu vực, “hủy hoại lợi thế của Mỹ trong mọi xung đột Mỹ-Trung trong tương lai”.
Các nhà nghiên cứu của Harvard, trong đó có chuyên gia Parker, từng có thời gian làm việc tại Bộ Chỉ huy Quân sự Thái Bình Dương hồi năm ngoái, lấy ví dụ tiêu biểu là khoản tiền trị giá 8 tỷ USD mà Sri Lanka vay của các doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc để phục vụ nhiều dự án cơ sở hạ tầng như xây dựng một sân bay và nâng cấp một cảng biển. Chính phủ Sri Lanka không đủ sức thanh toán khoản nợ ngày càng phình to này và đã cho Trung Quốc thuê lại cảng biển Hambantota – với vị trí chiến lược là nối liền với Ấn Độ Dương – trong khoảng thời gian là 99 năm. Báo cáo nhấn mạnh: “Cảng biển đó là một bẫy nợ. Một khi Sri Lanka cam kết sơ bộ, các chi phí cố định và phát sinh để kiếm lợi nhuận nhằm thanh toán khoản nợ ban đầu buộc họ lại phải vay mượn thêm, vòng luẩn quẩn cứ tiếp diễn và cuối cùng họ phải đánh đổi bằng cách cầm cố cảng biển đó”.
Bắc Kinh cũng đầu tư mạnh tay vào nhiều dự án tại Malaysia dưới thời cựu Thủ tướng Najib Razak. Malaysia cho tới nay phần lớn giữ im lặng trước việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia ở Biển Đông. Giáo sư Graham Allison, người chịu trách nhiệm hiệu đính báo cáo của Harvard, cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton, cho rằng Trung Quốc có một tuyển tập “chiến tranh kinh tế”, với hàng loạt mánh khóe ngoại giao, mua chuộc và gây ảnh hưởng trong thương mại. Ông nói: “Quyền lực kinh tế sẽ mạnh hơn quyền lực quân sự”.
Báo cáo cho rằng các khoản đầu tư “không đi kèm ràng buộc” của Trung Quốc rất hấp dẫn với các quốc gia có nền kinh tế yếu kém để thúc đẩy tăng trưởng, củng cố tính chính đáng về mặt chính trị cho giới lãnh đạo và trong một số trường hợp thậm chí là còn làm giàu cho những lãnh đạo này nhờ tham nhũng.
Thách thức cạnh tranh đối với các thể chế phương Tây như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), hay nhiều chính phủ và tập đoàn là ở chỗ họ phải tuân thủ chặt chẽ với các yêu cầu về tính minh bạch và khả thi về kinh tế, về luật lao động, các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn và môi trường khi ký kết hợp đồng.
Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc được chính quyền hậu thuẫn và nhiều khi có các khoản đầu tư không chỉ vì mục đích kinh tế đơn thuần mà còn để nhằm phục vụ lợi thế chiến lược cho Trung Quốc, khác hẳn với các doanh nghiệp tới từ các nền dân chủ tự do, vốn phải tuân thủ các nguyên tắc thị trường và độc lập trong hoạt động.
Tuy nhiên, các tiếp cận này của Trung Quốc cũng đi kèm với nhiều rủi ro. David Lampton, Giám đốc Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế Hiện đại Johns Hopkins, cho rằng Trung Quốc đang đầu tư vào các dự án hạ tầng “cả tốt cả xấu” trong khuôn khổ sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Ông nói thêm: “Thực tế nhiều người Trung Quốc lo ngại rằng nước này đang đổ tiền vào nhiều dự án vô vọng”.
Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng Mỹ nên ủng hộ Ngân hàng Phát triển Hạ tầng châu Á (AIIB) để từ đó tìm cách thuyết phục Trung Quốc trở thành một nhân tố đầu tư có trách nhiệm hơn.
Theo TTXVN/The Australian Financial Review
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này