12:03 - 28/12/2016
Khoa học công nghệ Việt Nam vẫn vô cảm với thị trường
Số lượng hùng hậu, từ các tổ chức KHCN, Doanh nghiệp KHCN, đến GS.TS, nhà khoa học, nhưng vẫn cứ nghẽn, KHCN vẫn vô cảm với thị trường, và cứ đứng bên lề…
Con số và những điểm nghẽn
Theo Viện chiến lược và chính sách, hiện Việt Nam có 2.845 doanh nghiệp KHCN. Trong đó có 204 đã được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN, 23 doanh nghiệp công nghệ cao, 400 doanh nghiệp đang hoạt động tại 4 khu công nghệ cao, 818 doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học công nghệ và 1.400 doanh nghiệp phần mềm.
Nhưng báo cáo của viện chiến lược và chính sách đã không chỉ ra, bao nhiêu doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp KHCN, doanh thu của nhóm này ra sao…
Một chuyên gia mỉa mai: “Trong số hàng ngàn doanh nghiệp trên, những người làm thống kê đã mập mờ đưa cả những tập đoàn nước ngoài vào. Những thương hiệu này doanh số hằng năm của họ lên tới hàng tỷ USD. Nếu cộng họ vào thì khối doanh nghiệp KHCN nước ta không thua kém các quốc gia có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới”!
Những con số đó được công bố trong cuộc gặp mặt của KHCN với các sở địa phương, các doanh nghiệp đánh giá thị trường KHCN vào cuối tuần qua tại TPHCM.
Ông Phan Minh Tân, cựu giám đốc sở KHCN TPHCM, nhận định: “Còn quá nhiều điểm nghẽn! Biết là có nghẽn nhưng không mấy người biết nghẽn ở đâu? Làm gì để khai thông những điểm nghẽn này?”. Ông Tân biết, nhiều người cũng biết nhưng quả thật, muốn khai thông những điểm nghẽn đó là chuyện không dễ dàng!
Vô cảm với thị trường!
Đó là nhận xét của ông Bùi Văn Quyền, cựu vụ trưởng vụ công tác phía Nam của bộ KHCN. Ông Quyền thẳng thắn: “Tính liên kết giữa nhà khoa học và thị trường còn yếu nên những kết quả nghiên cứu của họ không được thị trường tiếp nhận. Nhiều nhà khoa học chỉ biết lý thuyết mà vô cảm với thị trường. Nhiều doanh nghiệp cần những sản phẩm cụ thể từ những nghiên cứu thị trường trong khi đó các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu KHCN chỉ đi vòng vòng bên ngoài cuộc sống”.
Ông Quyền còn nói rằng, người làm chính sách về KHCN không hiểu được thị trường nên chính sách ban ra chỉ có lợi cho các cơ quan quản lý!
Về số lượng, với những con số khô khan nói trên, hoạt động KHCN Việt Nam, từ khối tư nhân cho đến khối nhà nước, về mặt lý thuyết là “đủ để góp sức cho nền kinh tế thăng hoa”. Nhưng trên thực tế thì sao? Những kết quả của KHCN, nhất là mảng “ăn” ngân sách nhà nước, đang là mối lo của xã hội, của những người đang thực thi trách nhiệm đóng thuế cho ngân sách quốc gia hằng năm.
Mỗi năm ngân sách quốc gia chi từ 1,5 – 2% cho hoạt động KHCN. Nhưng cho đến nay, chưa hề có bất cứ nghiên cứu nào nói về những đóng góp cho xã hội từ những kết quả KHCN sử dụng ngân sách.
Cựu bộ trưởng bộ KHCN Nguyễn Quân đã từng trả lời chất vấn của đại biểu quốc hội về đóng góp của KHCN sử dụng ngân sách: “Đầu tư cho KHCN là đầu tư cho tương lai. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư cho tương lai ngay cả khi không thể tính toán được hiệu quả tác động của KHCN trong ngắn hạn. Rất khó định lượng về hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nhà nước vào hoạt động này”. Vị cựu bộ trưởng này còn cho biết, hiện nay “chưa có một hệ tiêu chí đánh giá về cách thức tính toán chất lượng và hiệu quả của hoạt động nghiên cứu và phát triển để từ đó đo đếm hiệu quả đầu tư cho KHCN”.
Chính vì điểm khó này mà hiệu quả của tiền thuế mà nhân dân và doanh nghiệp dành cho hoạt động này rất thấp, trong khi đó hằng năm đề tài ê hề, tiền chi đủ, nhà khoa học giàu lên, còn thị trường không có sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp như lời ông Quyền.
Ông Phạm Đức Nghiệm, cục phó cục phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN (bộ KHCN) cho biết thêm: “Vì không có cạnh tranh giữa những người bán hàng, khung pháp lý dành cho thị trường KHCN chưa đầy đủ, chưa tổ chức các hoạt động hỗ trợ kinh doanh nên các sản phẩm KHCN từ ngân sách nhà nước hiện nay “trùm mền” trong tủ của các cơ sở KHCN nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước, viện trường…”.
Cần hiểu “ngôn ngữ thị trường”
Ông Nguyễn Việt Dũng, giám đốc sở KHCN TPHCM nói rằng: “Nên để các trung tâm nghiên cứu và phát triển (viết tắt là R&D) giữ vai trò trung gian giữa các nhà khoa học, viện trường, cơ sở KHCN công lập với thị trường. Theo tôi, các trung tâm R&D hiểu được 2 “ngôn ngữ”: ngôn ngữ thị trường và ngôn ngữ khoa học. Họ biết thị trường cần gì để từ đó sản xuất những kết quả nghiên cứu của giới hàn lâm”.
Ông Bùi Văn Quyền cho rằng, đã đến lúc cần “mở cửa hoàn toàn cho thị trường chuyển giao KHCN”.
Vị chuyên gia này còn nói thêm: “Nên khuyến khích các giáo sư KHCN ở các viện trường đại học có từ 1 – 2 doanh nghiệp đứng sau lưng để sản phẩm hóa những kết quả nghiên cứu khoa học. Cần có những chính sách hiểu đúng thị trường, may ra KHCN mới có cơ hội phát triển”.
Ông Trần Kim Quy, chủ tịch hội đồng quản trị công ty công nghệ Hóa Sinh, đề nghị Cục sở hữu trí tuệ nên tăng tốc trong việc chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp để họ sản xuất.
“Có những bộ hồ sơ chúng tôi đã gởi 3 năm rồi mà vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Vậy thì làm sao sản xuất hợp pháp? Vậy là đành sản xuất chui”, ông Quy nói.
Theo lời ông Nghiệm, KHCN đã có nhiều bộ luật như luật KHCN, luật chuyển giao công nghệ và hàng chục nghị định, thông tư… nhưng để thị trường KHCN có cơ hội phát triển, cần có những chính sách liên bộ về đất đai, thuế, tín dụng…
“Trong nhiều chính sách của nhiều bộ không có những thông tin để hỗ trợ cho thị trường KHCN tồn tại và phát triển. Trong năm 2017, bộ KHCN sẽ làm việc với các bộ hữu quan về những rào cản này”, thứ trưởng bộ KHCN Trần Văn Tùng nói thêm.
Trong khi chờ bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả về những kết quả nghiên cứu KHCN, những gợi ý của các chuyên gia về KHCN phần nào đã xoa dịu những nỗi bực dọc của nhiều doanh nghiệp, giới chuyên gia về thị trường KHCN ì ạch trong thời gian qua.
Theo Viện chiến lược và chính sách (bộ KHCN), tính đến hết năm 2016, Việt Nam có 8 sàn giao dịch công nghệ, 43 vườn ươm công nghệ, 63 trung tâm ứng dụng và phát triển công nghệ, 4 khu công nghệ cao, 8 công viên phần mềm, 13 khu nông nghiệp công nghệ cao, 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, 9 cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, 12.261 tiến sĩ và 33.000 thạc sĩ đang hoạt động trong lĩnh vực KHCN, 164.744 người tham gia hoạt động nghiên cứu và sáng tạo, mạng lưới đại diện KHCN tại 12 quốc gia. Đặc biệt, Việt Nam có 2.500 tổ chức KHCN, bao gồm: 1.111 cơ sở công lập, 2 viện hàn lâm, 2 viện đại học quốc gia, 207 trường đại học và 1.389 cơ sở dân lập.
Trong 5 năm, từ 2011 – 2015, những cơ sở trên đã thực hiện giao dịch chuyển giao, mua bán KHCN có giá trị là 13.700 tỷ đồng, trong đó có những giá trị chuyển giao thực tế từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng và cả những biên bản ghi nhớ tại các phiên chợ trình diễn kết nối cung cầu công nghệ!
bài và ảnh Hoàng Triều
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này