13:43 - 26/01/2018
Nhà nước có nên đầu tư mạo hiểm?
Đó là một câu hỏi vốn gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng khởi nghiệp thời gian qua.
Trao đổi với KH&PT, bà Phan Hoàng Lan (ảnh), một trong những tác giả của nghiên cứu về công cụ tài chính hỗ trợ khởi nghiệp của IPP2, lý giải:
“Đầu tư mạo hiểm của nhà nước cho khởi nghiệp” nên hiểu là hình thức nhà nước lập quỹ đầu tư mạo hiểm, đầu tư trực tiếp và đổi lấy cổ phần của doanh nghiệp.
Mặc dù hình thức này giải quyết việc cấp nguồn vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp khi cần, nhưng lại ẩn chứa nhiều vấn đề khó khăn khác. Một là theo các nguyên tắc kinh tế thông thường, Nhà nước chỉ nên tham gia vào những việc thị trường khiếm khuyết, nếu nhà nước tham gia quá sâu, có thể gây nên tình trạng làm thay đổi quy luật thị trường hay giảm vai trò (crowd-out) của các đơn vị đầu tư tư nhân. Hai là, hầu hết người trong các đơn vị nhà nước thường không có các kinh nghiệm, kỹ năng và động lực lợi nhuận như các đơn vị đầu tư mạo hiểm tư nhân, để có thể lựa chọn doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng nhất, cũng như quản lý nguồn vốn đầu tư và cung cấp các hỗ trợ kinh doanh hiệu quả. Ba là, để đầu tư mạo hiểm được thì phải đi đến cùng, mất rất nhiều thời gian để thoái vốn, có thể lên đến hơn mười năm, mà nhiều đơn vị nhà nước sẽ khó có thể chờ đợi được hoặc thay đổi chính sách khiến chính doanh nghiệp được đầu tư chịu rủi ro.
Chính vì những lý do này mà nhiều chuyên gia cho rằng, nhà nước không nên đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
– Ngoài việc lập quỹ đầu tư, những quốc gia trong khu vực như Malaysia và Singapore, chính phủ vẫn đối ứng với các quỹ đầu tư mạo hiểm (matching fund) để đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây có phải là một hình thức chúng ta nên học tập không?
– Hình thức này được nhiều chuyên gia gợi ý là chúng ta nên học hỏi, vì nó khắc phục được điểm yếu của quỹ đầu tư mạo hiểm của chính phủ. Tuy nhiên, về mặt cách làm, có những vấn đề rất kỹ thuật nhưng rất quan trọng mà chúng ta cần tuân thủ. Cụ thể điều này tôi học được khi tham gia dự án nghiên cứu về công cụ tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của IPP2, đó là:
1) Khi đối ứng thì nhà nước sẽ phải lựa chọn được những đơn vị đối ứng cùng là những đơn vị đã chứng minh được kinh nghiệm đầu tư thành công.
2) Khi đã đối ứng thì nhà nước cần tôn trọng quyết định của các nhà đầu tư tư nhân, gần như nhà nước chỉ đối ứng về mặt vốn, chứ không có nhiều tiếng nói trong việc quản trị của doanh nghiệp khởi nghiệp, mà để đơn vị đầu tư tư nhân làm việc đó.
3) Nhà nước thoái vốn khi nhà đầu tư tư nhân thoái vốn (chứ không đặt ra điều kiện ba hay năm năm phải thoái vốn nhà nước).
4) Không phân biệt quỹ đầu tư đến từ trong nước hay nước ngoài, chỉ cần họ có tỷ lệ nhất định đầu tư cho doanh nghiệp tại nước sở tại.
5) Nhà nước đóng vai trò vừa chia sẻ đầu tư, vừa chấp nhận nhà nước nhận lại ít lợi nhuận hơn, và để nhà đầu tư tư nhân nhận nhiều hơn phần lợi nhuận.
Điều thứ 5 có lẽ là điều tưởng như đơn giản, nhưng lại là điều khó nhất và theo tôi là rất quan trọng, để hướng tới việc đối ứng và thu hút đầu tư tư nhân thành công. Ví dụ Singapore, nhà nước có thể sẵn sàng đối ứng đầu tư với tỷ lệ 7:3 (nhà nước 7 phần, nhà đầu tư tư nhân 3 phần) cho doanh nghiệp khởi nghiệp, để chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư tư nhân, nhưng cũng sẵn sàng chỉ nhận lại 30% lợi nhuận. Có lẽ nếu không có các lợi ích như thế này, thì không có lý do để các nhà đầu tư tư nhân bị “thu hút” và tham gia đối ứng đầu tư với nhà nước.
Để làm được điều này thì tư duy xây dựng chính sách phải rất cởi mở, chấp nhận cho đi nhiều hơn nhưng nhận lại ít hơn thì mới có thể triển khai được. Hơn nữa, nếu chỉ nghĩ đến việc so sánh việc chia sẻ lợi nhuận thì cũng không hoàn toàn đúng, vì để được 1 đồng đầu tư có lãi, nhà đầu tư tư nhân cũng có thể mất cả 9 đồng đầu tư không thành công. Đồng thời, nếu nghĩ xa hơn, thì rõ ràng, thay bằng việc tài trợ (cho không), nhà nước vẫn thu lại được khoản lợi nhuận nhất định để tái đầu tư, mà kết quả thu được trong việc thu hút đầu tư tư nhân lại rất lớn.
– Bà đã từng chia sẻ rằng nhà nước không nên sử dụng hình thức đầu tư trực tiếp, bởi vì như vậy có thể cạnh tranh với tư nhân, mà nên đầu tư một cách gián tiếp?
– Việc nhà nước tự lập ra quỹ đầu tư mạo hiểm của mình và đầu tư trực tiếp là việc rất khó làm và khó để thành công. Chính vì vậy, một số nước trên thế giới hiện nay thực hiện hình thức đầu tư gián tiếp qua các quỹ (fund of funds). Trong trường hợp này, nhà nước đóng vai trò như một thành viên trách nhiệm hữu hạn (limited partner) của quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân (venture capital fund), nghĩa là chỉ có vai trò góp vốn và chịu trách nhiệm với phần vốn góp của mình, chứ không tham gia vào quá trình lựa chọn đầu tư và quản lý vốn của công ty quản lý quỹ (venture capital fund management company). Với hình thức đầu tư này, nhà nước không nắm cổ phần từng doanh nghiệp, mà của quỹ (tỷ lệ thất bại của doanh nghiệp có thể là 90%, nhưng của quỹ thì ít hơn nhiều). Do đó, đầu tư theo hình thức này giảm thiểu tỷ lệ rủi ro cho phần vốn nhà nước, tuy nhiên đối với mỗi quỹ thì nhà nước cũng cần bỏ nhiều tiền đầu tư hơn. Ở Israel, vào những năm 1990 nhà nước đã đầu tư theo hình thức này vào mười quỹ mạo hiểm tư nhân và đã rất thành công.
– Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng: “Nhà nước có đưa ra bao nhiêu công cụ cũng không quan trọng, mà môi trường cho các nhà đầu tư mới quan trọng”. Hiện nay ở Việt Nam, có những rào cản nào đối với khu vực đầu tư?
– Đúng là môi trường đầu tư là quan trọng. Môi trường này bao gồm nhiều vấn đề, như sự minh bạch và dồi dào thông tin doanh nghiệp, các quy định về đăng ký kinh doanh, phá sản, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với nhà đầu tư cá nhân, sự dễ dàng trong việc lưu chuyển vốn đầu tư từ nước ngoài vào trong nước, và ngược lại từ trong nước ra nước ngoài, sự sẵn có về các thị trường thu hút vốn và thoái vốn, nhân lực và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, v.v. Các vấn đề này không chỉ nằm ở các quy định, chính sách, mà còn ở cả mức độ phát triển của thị trường và hệ sinh thái khởi nghiệp.
Ở Việt Nam, chúng ta đã có các quy định khá rõ ràng về việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư đánh giá các thông tin về doanh nghiệp chưa thực sự nhiều và minh bạch. Chúng ta cũng chưa có các quy định về thuế thu nhập thặng dư cho nhà đầu tư cá nhân (mới chỉ có cho doanh nghiệp). Các thủ tục liên quan đăng ký vốn đầu tư từ nước ngoài vào trong nước cũng còn khá phức tạp, chưa thật phù hợp với các nguồn đầu tư nhỏ (dưới 1 triệu USD) mà mới chỉ phù hợp với các khoản đầu tư FDI lớn. Tương tự như việc chuyển tiền từ Việt Nam sang nước ngoài (khi nhà đầu tư thoái vốn hoặc khi nhà đầu tư trong nước mong muốn tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài, kể cả khi quỹ đầu tư đó đầu tư cho doanh nghiệp Việt Nam) cũng khá phức tạp, làm cho nhiều nhà đầu tư nản chí. Các thị trường, công cụ để thu hút vốn và thoái vốn như sàn gọi vốn đầu tư cộng đồng (equity-based crowdfunding) cũng chưa được luật hoá.
Hảo Linh thực hiện
Theo KH&PT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này