10:12 - 12/02/2018
Basmati và GI Việt Nam
Một chiều mùa đông rét mướt ở Hà Nội, tôi gặp chị tại văn phòng Cirad (tổ chức hỗ trợ phát triển của Pháp) sau khi vừa nghe tin Pháp đã bảo trợ cho hai chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là điều Bình Phước và tiêu Quảng Trị. Xin lược ghi lại cuộc trò chuyện.
– Chị Delphine, chị đã trải qua 15 năm làm việc về GI, xin chị kể sơ nét về chặng đường này?
– Tôi mà kể đủ dài lắm. Tôi tham gia nghiên cứu, hỗ trợ thành lập và phát triển các chỉ dẫn địa lý ở Nam Phi, Tây Phi, Nam Mỹ, châu Á. Ở châu Á, tôi làm việc ở Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan. Tôi cũng đang giảng dạy đại học về GI, đào tạo chuyên gia, hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Với Việt Nam, tôi góp sức cho GI lúa Hải Hậu, quế Vân Yên, chè Shan Tuyết Mộc Châu, và gần đây là điều Bình Phước, cùng tiêu Quảng Trị.
– Luôn sống xa nhà, phải đi nhiều, tiếp xúc nhiều ắt mang lại nhiều cảm xúc. Điều gì gây ấn tượng sâu sắc với cuộc sống của chị?
– GI có sứ mệnh rất quan trọng là bảo vệ di sản văn hoá, cũng là giá trị kinh tế cho địa phương, cho cộng đồng bản địa. Nhiều nước và địa phương phát triển chung và từng vùng miền là nhờ hiểu đúng, biết giữ gìn, tôn vinh giá trị của GI. Công việc của tôi cực, nhưng rất vui vì được giao tiếp với mọi người liên quan đến GI, trao đổi và học hỏi từ họ.
– Còn về câu chuyện tranh giành GI của Basmati, tôi chỉ đọc qua báo Ấn cũng thấy rất ly kỳ?
– Gạo Basmati là một câu chuyện thú vị nhưng phức tạp, kéo dài nhiều năm. Thực ra, gao Basmati có vị trí lớn trong nền kinh tế Ấn Độ (năm 2013 – 2014, họ xuất tới 37,58 triệu tấn với tổng giá trị hơn 4,8 tỉ USD). Vào năm 2011, năm nhà nhập khẩu chính của Basmati từ Arab Saudi, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Iran, Kuwait và Anh đã nhập 85% tổng giá trị xuất khẩu Basmati.
Basmati nổi tiếng và có giá trị cao đến nỗi phải đối mặt với sự chiếm đoạt. Năm 1997, Rice Tec, một công ty ở Texas, Mỹ, đăng ký “Texmati” và “Kasmati” và làm thương hiệu tại Vương quốc Anh, để chỉ những giống lúa Basmati trồng ở Mỹ đã lai tạo từ giống Basmati trồng ở Ấn Độ với gạo lùn trồng ở Texas. Thương hiệu “Kasmati” còn dùng hình ảnh đồ hoạ lâu đài Taj Mahal đặc trưng của Ấn, kèm theo cụm từ “Gạo Basmati kiểu Ấn Độ”. Nhà nước Ấn Độ và cơ quan do chính phủ phân công, cơ quan Phát triển xuất khẩu nông sản và thực phẩm chế biến (APEDA), đã đứng đơn kiện đòi lại thương hiệu Basmati. Chính phủ Ấn Độ cuối cùng đã thành công trong việc thách thức các nhãn hiệu Kasmati và Texmati.
Rice Tec, ban đầu nói, Basmati chỉ đơn giản là chỉ định gạo thơm, không phải là loại gạo GI được trồng ở tiểu lục địa Ấn Độ. Chính phủ Ấn đã thu thập được nhiều chứng cớ như tuyên bố của các chuyên gia ẩm thực từ Anh, tới việc chứng minh rằng Basmati thực sự có nghĩa là gạo thơm hạt dài từ tiểu lục địa Ấn Độ. Sau khi giành lại được tên Basmati từ Mỹ, Chính phủ Ấn Độ đã quyết định bảo vệ Basmati dưới hình thức GI, nhưng đã phải mất nhiều thời gian, vì lại nảy sinh ba vấn đề:
Định nghĩa của sản phẩm và đặc biệt là các loại giống: Ban đầu, tên của Basmati chỉ cấp cho việc trồng lúa từ các giống truyền thống, nhưng trong năm 2008, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, chính định nghĩa về các loại giống được gọi là Basmati đã được sửa đổi, bao gồm các giống tiến hoá hiện đại, miễn là phả hệ của giống bao gồm giống Basmati (truyền thống hoặc tiến hoá), và không cần thiết giống cha, mẹ trực tiếp. Có nghĩa, có thể thực hiện theo hướng hiện đại hoá.
Định nghĩa khu vực địa lý: Khu vực sản xuất truyền thống ban đầu là vùng đồng bằng Indo-Gangetic. Nhưng lại có một quốc gia không nằm trong khu vực địa lý này, lại có tính chất đất đai và khí hậu giống khu vực bày, cũng trồng lúa Basmati và gạo có cùng đặc điểm.
Nhưng Chính phủ Ấn đưa lý lẽ, chỉ đáp ứng các đặc tính chất lượng sinh học là không đủ tiêu chuẩn cho GI, mà còn phải được sự công nhận di sản văn hoá được xây dựng qua nhiều năm với trí tuệ, sự khôn ngoan qua nhiều đời của các thế hệ nhà sản xuất thuộc cộng đồng địa phương, tạo thành di sản chung cho cộng đồng này. Và GI chính là tài sản địa phương, nhằm bảo vệ một cái tên đã trở nên nổi tiếng nhờ sự sáng tạo của cư dân địa phương này.
Hành trình giành lại GI Basmati của Ấn Độ, đã phản ánh tầm quan trọng của sự can thiệp của nhà nước Ấn Độ ở cấp sản phẩm quốc gia. Cần lưu ý, đơn được đứng tên của APEDA, và APEDA là một cơ quan phi kinh doanh thuộc loại “cơ quan có thẩm quyền” được luật pháp thiết lập, một trong các chủ thể được quy định tại luật GI.
Cuối cùng, năm 2016, gạo Basmati đã được đăng ký dưới tên một GI ở Ấn Độ.
– Chị Delphine, câu chuyện này khiến tôi nôn nao nghĩ về nước mắm Phú Quốc của Việt Nam. Theo chị, bài học cô đọng nhất của vụ Basmati là gì?
– Bài học rất quan trọng từ chính câu chuyện Basmati là GI còn là vũ khí bảo vệ tài nguyên bản địa về kinh tế, kế đó là ta có thể tìm ra sự cân bằng giữa truyền thống và hiện đại trong việc xác định sản phẩm GI để giữ danh tiếng của sản phẩm. Và qua câu chuyện, cũng rất rõ, tầm quan trọng của vai trò chính phủ trong việc bảo vệ GI.
– Chị cho biết ý kiến về việc xây dựng GI cho Việt Nam?
– Việt Nam rất năng động, có thể con số GI đáng được công nhận còn nhiều hơn con số đăng ký tại cục Sở hữu trí tuệ (NOIP) cho đến năm 2017. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nhiều GI không được sử dụng, một số thì sử dụng không đúng mục đích, và có không ít thành tố trong chuỗi giá trị không hiểu hết khái niệm này. Ngoài ra, người tiêu dùng cũng chưa biết, chưa hiểu rõ giá trị GI. Vì vậy việc bảo vệ GI còn chưa đúng mức và lợi ích hiện rất giới hạn.
– Vậy giải pháp là gì, dưới góc nhìn một chuyên gia, thưa chị?
– Cần có một “hệ thống quản lý” cấp quốc gia, chứ không phải chỉ từ nhận thức, lòng tốt của một số người hay một số cơ quan.
Hệ thống này phải thực hiện một “hệ thống công việc” sau đây: (1) Lập sổ quy định (BoS), nêu rõ các đặc tính của sản phẩm, phương pháp sản xuất, khu vực địa lý. (2) Lập kế hoạch quản lý bao gồm nhiều việc như: đăng ký GI (ai sẽ chịu trách nhiệm), kiểm soát (loại nào, nó sẽ được áp dụng như thế nào, bởi ai), khuyến mãi (loại nào, làm thế nào và bằng ai) và chống các hành vi lạm dụng.
Kinh nghiệm của các nước EU và ASEAN, các GI thành công nhất đều là do có sự phối hợp chặt chẽ bởi các bên liên quan đến chuỗi giá trị. Nên thiết lập tổ chức này như là bước đầu tiên để bảo vệ GI.
Tham gia hệ thống quản lý này, có vai trò hỗ trợ của chính phủ (quốc gia) với tham gia của bộ Khoa học và công nghệ, bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, và bộ Công thương. Kế đó là vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố) phát hiện theo dõi, hỗ trợ giám sát các đơn vị sản xuất các GI, với sự hỗ trợ của hệ thống sở, ngành của các bộ trên tại địa phương. Kế hoạch chi tiết lắm chắc khó nói hết ở đây.
– Câu hỏi cuối cùng. Chị có dự định sang Việt Nam xây thêm GI cho Việt Nam?
– Vâng, tôi muốn làm như vậy! Nhưng đã có nhiều GI, thách thức trước mắt cấp bách hơn chính là phải có những GI hoạt động tốt!
Cám ơn chị Delphine và các anh chị chuyên gia của Cirad đã và đang hết lòng giúp đỡ GI Việt Nam.
Vũ Khánh
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này